Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2019/KDTM-PT ngày 04/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng gia công

Nội dung hủy án:

(i) Nguyên đơn cho rằng việc giao dịch để ký hai hợp đồng trên là do nhân viên của mình là bà Hải L trao đổi nội dung và gửi mail cho nhân viên của bị đơn, các mail nguy n đơn xuất trình thể hiện xuyên suốt quá trình giao dịch với các nhân viên bị đơn gồm nhân viên L1 (loi**ungqn9@gmail.com) ĐT: 01652.288.XXX - 0938.013.XXX; Hoài T (hoai**uong7tvk38@gmail.com) – 0964.717.XXX, 098.346.9XXX và Mr. C – người cho các đơn vị khác gia công hàng (bút lục 120). Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ mời làm việc yêu cầu cung cấp thông tin bà Hoài T (các bên cho rằng bà T đã nghỉ việc, kh ng có địa chỉ liên hệ) mà chưa làm rõ những người li n quan khác như bà L1, ông C là chưa có căn cứ vững chắc xác định giữa hai bên có giao dịch hai hợp đồng trên.

(ii) Kiểm tra các phiếu xuất kho: Tất cả phiếu xuất kho chỉ có ký tên người lập phiếu và người nhận hàng mà không ghi họ tên người cụ thể. Bị đơn cho rằng bị đơn không có giao dịch với nguyên đơn vậy người nhận hàng trong các phiếu xuất kho do nguyên đơn xuất trình có phải là người của công ty bị đơn hay không? Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này.

(iii) Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng lời khai của nhân chứng là người vận chuyển Phạm Tuấn AV về việc ghi nhận ông AV có lái xe để giao lô hàng thành phẩm của Công ty YJ cho Công ty AK, nhưng sau đó trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc triệu tập lại ông AV đến tham gia phiên tòa mà xét xử vắng mặt ông AV. Trong khi có sự mâu thuẫn trong lời khai của nhân chứng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ, cụ thể: Ngày 15/3/2017 (bút lục 17), ông AV có chuyển hàng thành phẩm từ Công ty YJ đến Công ty AK, là không phù hợp với việc nguy n đơn trình bày ngày nguy n đơn giao hàng cho bị đơn là ngày 03/5/2017 tại Thông báo của Công ty YJ đề nghị Công ty AK thanh toán tiền hàng đợt 1 (bút lục 10); Danh mục nguyên liệu (bút lục 127) thể hiện Công ty AK giao cho Công ty YJ gia công (tài liệu Công ty YJ tự cung cấp) thì ngày 23/3/2017, Công ty AK cũng mới giao vật tư, nguyên liệu qua cho Công ty YJ. Vậy, ngày 15/3/2017 Công ty YJ lấy đâu ra sản phẩm gia công để xuất cho Công ty AK?

(iv) Theo Hợp đồng gia công hàng may mặc số 01GC/AK-YJ/2017 ngày 31/3/2017; Hợp đồng gia công hàng may mặc số 02GC/AK-YJ/2017 ngày 14/4/2017 thì điều kiện để thanh toán là có Biên bản thanh lý nguyên phụ liệu giữa hai bên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa yêu cầu nguyên đơn cung cấp là điều tra chưa đầy đủ.

(v) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng các hồ sơ sao y xuất khẩu xác nhận Công ty AK có xuất các mã hàng UBTA524A, UBTA521A, EBTA440C ra nước ngoài từ ngày 01/4/2017 đến ngày 29/4/2017 để kết luận lô hàng nguyên đơn khởi kiện bị đơn đòi tiền gia công là những lô hàng này. Xét thấy: Đối chiếu về thời gian giao hàng và số lượng hàng hóa tại các phiếu xuất kho đã liệt kê tại tiểu mục [2.2] với thời gian kê khai hàng hóa và số lượng hàng hóa xuất khẩu tại 08 bộ hồ sơ sao y xuất nhập khẩu của Công ty AK (theo Công văn số 3007/GC-TH ngày 20 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Hải quan quản lý hàng gia công thuộc Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh) đều không phù hợp; đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm nguy n đơn đã khẳng định rằng các tờ khai trên chỉ chứng minh cho việc bị đơn đã xuất những mã hàng mà nguy n đơn có sản xuất, gia công, còn các tờ khai xuất nhập khẩu của Công ty AK trong 08 bộ hồ sơ trên không phải là tờ khai của số hàng mà nguy n đơn đã giao cho bị đơn. Như vậy, chứng cứ Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng trong trường hợp này là vi phạm Điều 93 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bài viết liên quan

Góp ý