Nội dung hủy án:
(i) Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như quá trình thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm đại diện cho nguyên đơn T là ông Ngô Mạnh H (BL 103) cũng xác định: Hợp đồng 01/2020 do E soạn thảo, ngày 01/3/2020 E ký 4 bản hợp đồng và gửi cho T ký. Sau khi nhận được hợp đồng ngày 09/3/2020, thấy có sự bất thường về giá, ngày 17/3/2020 T đã gửi email cho E xác nhận. T yêu cầu E làm thêm Phụ lục hợp đồng mới tính theo giá của năm 2019, E đồng ý. Đồng thời nội dung trên phù hợp với nội dung trao đổi tại các thư điện tử (email) giữ Eh và T cụ thể ngày 24/3/2020 E có phản hồi không chấp nhận Phụ lục hợp đồng (theo E về thời hạn hợp đồng là 01 năm, đơn giá do E quyết định (là giá đã thỏa thuận ngày 26/02/2020), số lượng gia công do E quyết định). Cho đến ngày 28/3/2020 T đã gửi cho E bản Phụ lục hợp đồng để điều chỉnh bổ sung điều 5,6,7 của hợp đồng số 01/2020 (BL 287). Cùng ngày 28/3/2020 và ngày 30/3/2020 E phản hồi về việc thực hiện theo giá E đưa ra ngày 26/02/2020. Tuy nhiên, đến ngày 08/4/2020, ngày 05/5/2020 phía T vẫn xuất hóa đơn và đề nghị E thanh toán theo đơn giá T tự điều chỉnh tăng gấp 10 lần, E từ chối nhận hóa đơn và ngừng giao hàng cho T gia công ngày 11/4/2020, gửi emai ngày 13/4, 8/5, 9/5 đề nghị tính lại giá.
Như vậy, Hợp đồng gia công hàng hóa số 01/2020/HĐGCHH-E-T ngày 01/3/2020 mặc dù các bên đã ký, nhưng lại không đúng với ý chí, nguyện vọng của các bên về các điều khoản chính của hợp đồng, về giá cả, về số lượng đơn hàng, đặc biệt là đơn giá tăng bất thường gấp 10 lần. Sau khi phát hiện sai sót trong hợp đồng, các bên đã trao đổi rất nhiều lần để đi đến thống nhất và sửa đổi hợp đồng nhưng cả hai đều không đạt được thỏa thuận để đi đến ký kết một hợp đồng mới hoặc phụ lục hợp đồng điều chỉnh bổ sung. Do đó, Hợp đồng số 01/2020/HĐGCHH-E-T ngày 01/3/2020 giữa Công ty TNHH Dịch vụ kỹ thuật T và Công ty TNHH E HCM V không có giá trị thực hiện. Từ đó cho thấy kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH E HCM V là có cơ sở chấp nhận.
(ii) Đối với số tiền gia công các bên đã thực hiện:
Quá trình giải quyết đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm: Cấp sơ thẩm không đối chiếu xem xét giá cả có sự mâu thuẫn giữa hợp đồng và phụ lục hợp đồng (trang 3 và trang 7 của hợp đồng), không tham khảo giá hợp đồng cùng thời điểm phía Eh ký với công ty khác, hay giá của gia công sản phẩm cùng loại của năm 2019, để xác định số tiền công mà phía T đã gia công để buộc phía bị đơn là E phải thanh toán mà cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào hợp đồng và phụ lục hợp đồng do nguyên đơn cung cấp, cùng với các hóa đơn phía nguyên đơn xuất ra có sự tăng gấp 10 lần của từng sản phẩm để buộc phía bị đơn thanh toán là không đúng quy định của pháp luật.