Nội dung hủy án:
(i) Xét kháng cáo của bị đơn Công ty D, thì thấy: Công ty TNHH H khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH D phải trả lại tiền hoàn thuế GTGT 5% theo giá trị các hợp đồng mà các bên đã ký kết trong quá trình giao dịch mua bán hàng hóa. Tòa án thành phố Buôn Ma Thuột đã thụ lý giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện cùa nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả tiền hoàn thuế mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán là không đúng quy định của pháp luật. Bởi lẽ: Theo các Hợp đồng mua bán giữa Công ty TNHH H và công ty TNHH D Vệt Nam, tại điểm 4.2 Điều 4 quy định: “... Tiền thuế GTGT sẽ được thanh toán sau khi bên A (Cty Đăk Man) nhận được tiền hoàn thuế và muộn nhất vào ngày cuối cùng của tháng kế tiếp so với ngày tháng bên B (Cty H) xuất hóa đơn cho bên A”.
Tuy nhiên, cho đến nay Cục thuế tỉnh Đăk Lăk vẫn chưa hoàn thuế cho Công ty D theo quy định. Tại công văn 157/TB-CT của Cục thuế Đăk Lăk đã trả lời việc chưa hoàn thuế cho Công ty TNHH D là vì lý do: Công ty TNHH H đang bị Cơ quan công an điều tra về hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT khống của các Doanh nghiệp khác, vụ việc đang được điều tra, làm rõ và Cục thuế Đăk Lăk chưa nhận được kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, nên chưa có căn cứ để giải quyết số tiền thuế cho Công ty D.
Như vậy, căn cứ vào Mục 4.2 Điều 4 của hợp đồng mua bán giữa Bên A (Cty TNHH D) với Bên B (Cty TNHH H) và căn cứ Công văn 157/TB-CT của Cục thuế Đăk Lăk thì việc Công ty D chưa trả khoản tiền hoàn thuế cho Công ty TNHH H, là vì Cục Thuế Đăk Lăk chưa thực hiện hoàn thuế cho Công ty D theo quy định. Vì vậy, trong trường hợp này cần xác định là đương sự chưa đủ điều kiện để khởi kiện. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217 để đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn kiện mới đúng quy định của pháp luật.
(ii) Ngoài ra, Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện viện kiểm sát thành phố Buôn Ma Thuột phát biểu quan điểm và cho rằng thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 309 Luật thương mại năm 2005 để đình chỉ vụ án, trả lại đơn khởi kiện là không đúng, làm ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Bởi lẽ, đối tượng khởi kiện trong vụ án này là “số tiền hoàn thuế” đang bị phụ thuộc bởi bên thứ ba là Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, chứ không phải lỗi của một trong các bên đương sự. Vì vậy, nếu áp dụng thời hiệu là 02 năm để đình chỉ thì sẽ làm mất quyền khởi kiện của các đương sự, khi họ có đủ điều kiện khởi kiện lại vụ án.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH D. Áp dụng 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217; Điều 308 và Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự. Hủy Bản án KDTM sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án do Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn H chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Căn cứ khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, khi có đủ điều kiện khởi kiện, Công ty trách nhiệm hữu hạn H có thể khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.