Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 10/2024/KDTM-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản

Nội dung hủy và sửa án:   

1. Thấy rằng, theo khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 11 và khoản 2 Điều 13 quy chế cho vay của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng N; khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm cho hợp đồng tín dụng: Lãi suất phạt quá hạn ở đây được hiểu là lãi quá hạn. Ngoài ra, không có quy định nào kể cả trong Bộ luật Dân sự cho phép tổ chức tín dụng phạt nhiều lần về cùng một vi phạm trong hợp đồng tín dụng. Vì nếu cho phép phạt nhiều lần thì quy định phạt lãi do quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay nói trên đã bị vô hiệu hoá. Do đó, đây là lãi chồng lãi, phạt chồng phạt. Từ đó, nội dung thỏa thuận lãi suất trên số tiền lãi chậm trả 10%/năm của các bên thoả thuận tại khoản 3.5 Điều 3 của Hợp đồng tín dụng ngày 11/11/2021 là trái pháp luật theo khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, chấp nhận nội dung này của kháng nghị, sửa lại phần tuyên về nghĩa vụ trả nợ của bị đơn đối với nguyên đơn, không buộc trả thêm phần lãi chậm trả.

2. Xét nội dung kháng nghị có đặt ra xem xét đối với Bản án sơ thẩm còn tuyên “kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án mà bị đơn chậm thi hành thì hàng tháng bị đơn còn phải thanh toán khoản lãi, phí phát sinh sau ngày 25/9/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ, Hợp đồng mở thẻ đã ký kết” mà không ghi rõ chịu lãi trên khoản nợ gốc chậm thanh toán là trái quy định pháp luật, lãi chồng lãi, gây ảnh hưởng quyền lợi cho bị đơn.

Phần phân tích này của kháng nghị là phù hợp nên chấp nhận điều chỉnh lại phần tuyên của bản án theo đó xác định “kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án mà bị đơn chậm thi hành thì hàng tháng bị đơn còn phải thanh toán khoản lãi, phí phát sinh sau ngày 25/9/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ, Hợp đồng mở thẻ đã ký kết phải chịu lãi trên khoản nợ gốc chậm thanh toán”. Có như vậy mới đảm bảo phù hợp với quy định, không ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

3. Tuy nhiên, tại thời điểm thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa 465, gia đình ông C vẫn sinh sống trên nhà, đất này. Cụ thể: Theo Biên bản xác minh ngày 29/12/2022 (bút lục 284) của Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận tại thửa đất 465 có căn nhà của hộ gia đình ông Lâm Văn C đang sinh sống gồm có: ông C, Lâm Văn T6, Dương Thị Tố A, Trương Thị L1, Lâm Thị Hồng T7, Châu Trúc L2. Nhưng khi giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm không đưa những người này vào tham gia tố tụng là vi phạm khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật. Phân tích việc đưa thiếu người tham gia tố tụng sẽ không đảm bảo được việc Ngân hàng sau này khi yêu cầu phát mãi sẽ không thực hiện được thuận lợi vì Bản án không tuyên buộc ông C và những người thuộc thành viên trong gia đình đang ở trên đất này có trách nhiệm bàn giao và như vậy sẽ không thực hiện được việc thi hành án. Hơn nữa, trên đất còn có căn nhà do ông C xây dựng cũng chưa được định giá trị đã xây dựng. Do vậy chấp nhận đối với nội dung này của Kháng nghị huỷ một phần bản án sơ thẩm liên quan đến việc giải quyết xử lý tài sản đảm bảo liên quan đến ông Lâm Văn C. Không cần thiết huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm như Kháng nghị đã đặt ra.

Bài viết liên quan

Góp ý