Nội dung hủy án:
1. Như vậy, tại thời điểm năm 2002-2003, khi UBND tỉnh L cấp GCNQSDĐ cho Công ty N và Công ty N cho Công ty D thuê lại thì các thửa đất vẫn thuộc quyền sử dụng của ông P và bà H. Quá trình giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm không thu thập GCNQSDĐ và quyết định cấp GCNQSDĐ của UBND tỉnh L cấp cho Công ty N để chứng minh quyền của người sử dụng đất mà chỉ trên cơ sở trình bày của Công ty N là chưa đảm bảo.
2. Thấy rằng, đối với phần diện tích 4.184m2 mà Công ty N giao cho Công ty D bị thiếu thì chưa được cấp sơ thẩm làm rõ có nằm trong phần đất diện tích 13.109,2m2 và 6.633m2 như trên mà ông P, bà H tái chiếm, sử dụng như ý kiến trình bày của Công ty N hay không. Như vậy, diện tích 4.184m2 đất này trong trường hợp Công ty N khởi kiện ông P, bà H được chấp nhận thì phần diện tích đất này được xử lý như thế nào trong khi cấp sơ thẩm đã xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, việc ông P đã bán đất cho bà T1 thì thủ tục chuyển nhượng như thế nào, có xây dựng công trình gì trên đất hay không. Việc cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập chứng cứ, chưa lấy ý kiến của ông P, bà H, bà T1 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
3. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tính lãi đến ngày 29/5/2023, không tính lãi đến ngày xét xử sơ thẩm là không chính xác, đồng thời buộc Công ty D trả lãi từ ngày tạm tính (ngày 29/5/2023) đến ngày thực trả cũng không chính xác, mà trường hợp này kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty N thì Công ty D mới phải trả lãi. Bởi lẽ các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận về việc trả lãi chậm trả theo quy định tại Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQHĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, do đó cần sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án cho phù hợp với quy định.