Nội dung hủy án:
(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc Đ xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo đối với yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất diện tích 276m2 thửa 1680, tờ bản đồ số 10 loại đất trồng cây hàng năm giữa cụ Nguyễn Thị M1 cho ông Lê Văn P và bà Nguyễn Thị Hồng H; phía bị đơn và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đồng ý. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và việc bị đơn đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ về việc yêu cầu Toà án huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa 1680 diện tích 276m2 tờ bản đồ số 11.
(ii) Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc D:
Thửa đất số 522, có diện tích 2.500m2 (diện tích thực đo là 2.282,2m2) loại đất T+Q tờ bản đồ số 10 và thửa 170 diện tích 6.140m2 tờ bản đồ số 11 có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Văn K1 (cha bà Đ, cha dượng ông P) kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện D (nay là Ủy ban nhân dân thị xã D) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ cụ K1 vào ngày 17 và ngày 21/8/1995. (Công văn số 614/UBND-KT ngày 16/3/2022 của UBND thị xã D khẳng định là đất cấp cho hộ cụ K1 – BL 119). Ngày 06/8/2003 cụ Nguyễn Văn K1 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 02 thửa 522 diện tích 2.500m2 và 170 diện tích 6.140m2 (tổng diện tích chung 8.640m2) loại đất TQ – Ao cho ông Lê Văn P có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L vào ngày 20/8/2003.
Hội đồng xét xử xét thấy, về trình tự, thủ tục lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Văn K1 với ông Lê Văn P đối với các thửa 522 và thửa 170 lập vào ngày 06/8/2003 chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật, bởi lẽ:
Hai thửa đất trên được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ cụ K1 nhưng chỉ có một mình cụ K1 thực hiện việc chuyển nhượng (thửa 522, 170) và trong quá trình giải quyết vụ án ông P thừa nhận: “trong hợp đồng chỉ có một mình ông ký tên, còn chữ ký và chữ viết của cụ Nguyễn Văn K1 là do ông tự ký và viết tên dùm cụ K1” trước sự chứng kiến của Ủy ban nhân dân xã nơi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là chưa đảm bảo về trình tự thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 131, 705, 707 Bộ luật Dân sự năm 1995.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng thời điểm kê khai, đăng ký thì các con của cụ K1, cụ M1 không có công sức đóng góp gì đối với tài sản này là thửa 522, 170 mà đây là tài sản chung của cụ K1 và cụ M1 là áp dụng không đúng pháp luật. Cụ thể: Theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong trường hợp này là quyền sử dụng chung của các thành viên trong gia đình. Tại khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác”.
Như vậy khi chuyển nhượng, thừa kế hay có tranh chấp xảy ra thì các thành viên trong hộ gia đình có quyền ngang nhau. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy trong vụ án này cần áp dụng quy định khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai và khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết tranh chấp, xác định việc cụ Nguyễn Văn K1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Lê Văn P các thửa 522, thửa 170 được lập vào ngày 06/8/2003 là vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ cụ K1 (Công văn số 67/CATX ngày 22/6/2020 của Công an thị xã D trả lời về kết quả khai thác tàng thư hộ khẩu – BL 26 – Hộ cụ K1 có 11 nhân khẩu), không thể nhận định “thời điểm kê khai, đăng ký thì các con của cụ K1, cụ M1 không có công sức đóng góp gì đối với tài sản này là thửa 522, 170 và 1680 mà đây là tài chung của cụ K1 và cụ M1”.
Lẽ ra trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm cần áp dụng Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 1995 để hủy hợp đồng chuyển nhượng thửa 522, thửa 170 do vi phạm về mặt hình thức và nội dung mới đảm bảo pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại công nhận việc chuyển nhượng nói trên là ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong vụ kiện.
(iii) Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn P và cụ Nguyễn Thị M1 đều thừa nhận: cụ K1 chuyển nhượng đất cho ông P để lấy tiền nhằm mục đích trả nợ ngân hàng và để sửa nhà, thửa 170 chuyển nhượng với số tiền 45.000.000 đồng; thửa 522 số tiền 25.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cụ K1 và cụ M1 đã nhận đủ tiền là không đúng với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bởi lẽ lời khai của cụ M1 tại Tòa án chỉ thừa nhận có nhận 60.000.000 đồng chuyển nhượng thửa 1680 nhưng thời điểm này, cụ K1 đã chết. Còn thửa 522, 170 cụ M1 không có nhận tiền, trong Hợp đồng chuyển nhượng cũng không ghi giá tiền, cụ K1 đã chết và ông P cũng không chứng minh được có giao đủ tiền cho cụ K1 như ông P đã trình bày; nguyên đơn và các con của cụ K1 không thừa nhận có việc giao nhận tiền, sử dụng tiền chuyển nhượng đất vào sinh hoạt, nuôi dưỡng gia đình.
Hội đồng xét xử cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ cụ M1 trình bày số tiền vợ chồng bà chuyển nhượng cũng sử dụng chung cho mục đích của gia đình, từ đó cần phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 03 thửa đất trên cho ông P là vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các con của cụ K1, cụ M1.