Nội dung hủy án:
(i) Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của bà Nguyễn Thị Thu T2 tại cấp phúc thẩm như sau:
Bà Nguyễn Thị Thu T2 cần vay số tiền lớn để trả nợ nên gặp bà Nguyễn Thị P3, địa chỉ: khu dân cư C, thành phố T và ông Nguyễn Ngọc D1 (không rõ địa chỉ) giới thiệu gặp bà Võ Thị L2, sinh năm 1980, hộ khẩu số I đường P, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để vay tiền. Bà L2 giới thiệu cho bà T2 gặp ông Vũ Minh T (bị đơn) vay số tiền 12.000.000.000 đồng (gồm tiền gốc 9.819.000.000 đồng và lãi 2.181.000.000 đồng).
Ông T yêu cầu thế chấp tài sản thì bà T2 trình bày có thửa đất số 38 đang đứng tên chồng là ông Nguyễn Đình P (nguyên đơn) và đang thế chấp tại Ngân hàng V. Ông T hướng dẫn bà T2, bà L2, bà P3 thực hiện phương án theo chỉ đạo của ông T như sau:
Bà Nguyễn Thị P3 là người soạn “Giấy ủy quyền”, bà Nguyễn Thị Thu T2 là người giả chữ ký của ông Nguyễn Đình P. Giấy ủy quyền có nội dung ông P ủy quyền cho bà Võ Thị L2 để thực hiện các nội dung sau: nộp và nhận bản chính hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất; nộp hồ sơ xin trích lục bản vẽ và đo đạc khảo sát đất; nộp hồ sơ đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất (chuyển thổ cư); xác lập, ký tên và nộp các loại thuế có liên quan về quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật; nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy ủy quyền này được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương xác nhận ngày 13/6/2018.
Bà T2 thừa nhận, qua sự bàn bạc bà P3 là người thảo nội dung, bà T2 giả mạo chữ ký của ông P tại Giấy ủy quyền này, mục đích sử dụng giấy ủy quyền này để cho bà L2 được nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P đang thế chấp tại Ngân hàng VCB khi tất toán khoản vay của vợ chồng bà T2 tại ngân hàng này.
Sau khi được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương xác nhận chữ ký của ông P tại Giấy ủy quyền trên. Ngày 21/6/2018, ông Vũ Minh T (lấy tư cách đại diện của Phòng Kinh doanh số 4 – Công ty TNHH MTV H2) ký hợp đồng cho bà Nguyễn Thị Thu T2, ông Nguyễn Đình P vay vốn; hợp đồng vay vốn chỉ có bà T2 ký tên, ông P không ký tên, số vốn vay 12.000.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bà T2, trình bày trong số tiền 12.000.000.000 đồng thì tiền vốn vay thực tế là 9.819.000.000 đồng và lãi 2.181.000.000 đồng của 03 tháng vay.
Cùng ngày 21/6/2018, bà T2 cùng ông T, bà P3, bà L2 mang giấy ủy quyền đến Ngân hàng VCB xin thanh toán nợ vay trước hạn, ông T chuyển vào tài khoản của ông P đăng ký tại Ngân hàng V số tiền còn nợ là 4.569.000.000 đồng để trả cho Ngân hàng V. Sau khi tất toán tiền vay, Ngân hàng V trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T2 (bút lục 29) và ông T chiếm giữ ngay giấy chứng nhận này.
Sau đó, bà T2, ông T, bà L2, bà P sử dụng Giấy ủy quyền trên mang đến Ủy ban nhân dân xã Đ xin xác nhận tình trạng bất động sản để vay vốn và được Ủy ban xác nhận (bút lục 138); rồi mang đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B xóa thế chấp, trích lục thửa đất.
Ngày 25/6/2018, ông P ký hợp đồng ủy quyền cho bà T2 được quyền sử dụng thửa đất 38 nêu trên (bút lục 444). Cùng ngày 25/6/2018, bà T2 ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 38 của ông P cho ông Vũ Minh T. Ông Tâm giao t cho bà T2 số tiền 5.250.000.000 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy: các nội dung trên Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, thu thập chưa đầy đủ. Đưa thiếu người tham gia tố tụng (bà L2, bà P, ông D1 cần đưa vào để đối chất, làm rõ). Nhận định và quyết định của bản án chưa phù hợp với tình tiết của vụ án.
(ii) Bà Nguyễn Thị Thúy L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu độc lập, trình bày ngày 01/8/2018, bà L ký hợp đồng chuyển nhượng dự án (không có chứng thực) với ông Nguyễn Đình P thửa đất số 38, tờ bản đồ số 36, diện tích 19.197m2 và toàn bộ tài sản ông P tạo lập trên đất gồm: 01 nhà kho chứa phân diện tích 63,7m2 kết cấu mái tôn, nên xi măng, tường xây tô, cửa cuốn; 01 căn nhà nuôi yến diện tích 251,6m2 kết cấu mái tôn, nền xi măng, cửa sắt; 01 căn nhà cho công nhân ở diện tích 21m2 kết cấu mái tôn, tường gạch, nền gạch bông; 01 chuồng gà diện tích 18m2 kết cấu mái tôn, cột gỗ, lưới B40 bao quanh; 01 hàng rào lưới B40 chiều dài 102m; 01 cổng sắt rộng 4m, cao 1,5m; 01 chân bồn nước 3m2 và 01 bồn nước 500lít; 500 cây bưởi;
2000 cây cam; 01 trụ điện bê tông cột thép và 10 trụ điện bằng sắt; 01 máy bơm công nghiệp; 02 máy bơm hoa tiễn, thời hạn sử dụng 20 năm, tài sản tọa lạc tại xã Đ, huyện B với giá 4.900.000.000 đồng. Bà L đã giao cho ông P số tiền 1.500.000.000 đồng và ngày 10/4/2019 giao tiếp 3.400.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập làm rõ nội dung bà L nhận chuyển nhượng dự án của ông P, thực tế nhận chuyển nhượng tài sản gì của ông P (đất và tài sản trên đất hay như thế nào). Bản án sơ thẩm của Tòa án huyện Bắc Tân Uyên giải quyết chưa đảm bảo quyền lợi của bà L.
Nhận thấy, cấp sơ thẩm đưa thiếu người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án cần xem xét việc ủy quyền của các đương sự cho hợp pháp.