Bản án dân sự phúc thẩm số 308/2023/DS-PT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Về vị trí sử dụng đất trên thực tế và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho đương sự:

Theo lời trình bày của bị đơn ông Đinh Thế P: Năm 2008 gia đình ông có nhận sang nhượng của ông Nguyễn Viết X thửa đất số 229d, tờ bản đồ số 02, diện tích 1.300m2, giáp mặt đường tỉnh lộ 1A có chiều rộng 7m, chiều dài khoảng 200m, chiều rộng phía sau là 6m. Được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 595944 ngày 09/4/2008, khi nhận chuyển nhượng đất của ông X thì có các hộ liền kề đều ký giáp ranh, trong đó có ông Nguyễn B (bố của ông H). Như vậy, đất của ông P và đất của ông H liền kề nhau.

Lời trình bày của bị đơn bà Ngô Thị Kim Y: Ngày 10/01/2003, chồng bà là ông Bun Mung L cùng với vợ chồng em gái bà Y là ông Bùi Lê A, bà Ngô Thị Kim L nhận sang nhượng của ông Nguyễn Đình H 01 thửa đất có chiều ngang 10m, chiều dài 200m. Khi nhận sang nhượng đất của ông H, thì ông H có mời ông Trương Minh C, bà Nguyễn Thị C có mặt. Các bên thống nhất thỏa thuận cắt 50m dài và ngang 10m phía sau tặng cho ông C, bà C. Thửa đất hai gia đình chúng tôi nhận sang nhượng có chiều ngang rộng 10m, chiều dài còn lại là 150m, thửa đất số 229b, tờ bản đồ số 01. Như vậy, đất vợ chồng ông A và vợ chồng bà Y mua có hướng Nam giáp với đất ông Trương Minh C.

Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện: Tính từ hướng Đông sang hướng Tây dọc theo tỉnh lộ 1, các đương sự và người liên quan trong vụ án đang sử dụng đất lần lượt như sau: Đất ông Hoàng Văn T; Đất ông Đinh Thế P; Đất ông Nguyễn Văn H; Đất bà Ngô Thị Kim Y; Đất ông Nguyễn Thành T (do nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Bùi Lê A); Đất ông Trương Minh C.

Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các đương sự và người liên quan lại có thứ tự (tính từ hướng Đông sang hướng Tây dọc theo tỉnh lộ 1) như sau: đất cấp cho ông Hoàng Văn H (chưa sang tên cho ông Hoàng Văn T); Thửa đất số 229d cấp cho ông Đinh Thế P; Thửa 229b cấp cho bà Ngô Thị Kim Y; Thửa 229a cấp cho ông Nguyễn Thành T; Thửa 225A cấp cho ông Nguyễn Văn H; Thửa 229 cấp cho ông Trương Minh C.

Như vậy, vị trí số thửa trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện B cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Ngô Thị Kim Y, ông Nguyễn Thành T không đúng với vị trí đất mà ông Nguyễn Văn H, bà Ngô Thị Kim Y, ông Nguyễn Thành T sử dụng trên thực tế.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự thì khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét hủy quyết định cá biệt thì thẩm quyền giải quyết được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính. Việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trái quy định trong vụ án dân sự không phải là tranh chấp về dân sự nên không bắt buộc phải có đơn yêu cầu của đương sự.

Phần II Giải đáp 02/GĐ-TANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2016 hướng dẫn như sau: Khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó. Trường hợp việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý giải quyết vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.

Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm phát hiện có việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định nhưng không chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết mà đưa ra xét xử là vi phạm về thẩm quyền.

(ii) Theo Giấy chứng nhận cấp cho hộ ông Đinh Thế P thì hướng Bắc thửa đất giáp đường tỉnh lộ 1A rộng 7m, hướng Nam rộng 6m. Ông P cũng thừa nhận đất của gia đình ông có chiều rộng hướng Bắc là 7m; chiều rộng hướng Nam là 6m như Giấy chứng nhận đã cấp. Tuy nhiên, sơ đồ hiện trạng vị trí thửa đất (do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B thực hiện) thể hiện đất của gia đình ông P đang sử dụng có hướng Bắc rộng 7,65m, Hướng Nam rộng 6,50m; biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn thực hiện thì đất của ông P sử dụng có hướng Bắc giáp đường tỉnh lộ 1 rộng 7,2m, hướng Nam giáp đất ông Võ Quốc B rộng 6,2m (bút lục 391 đến 395). Như vậy, số liệu không trùng khớp nhưng chưa được làm rõ kết quả nào là chính xác để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Cấp sơ thẩm xác định đất của ông P đang sử dụng lớn hơn so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi hiện trạng sử dụng đất của ông H đang thiếu so với Giấy chứng nhận (hẹp dần về phía sau), cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này mà lại bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, kiến nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo hiện trạng sử dụng là chưa đủ cơ sở.

(iii) Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn có nêu: Hướng Tây thửa đất, tính từ mốc lộ giới kéo dài về sau 20m bà Y lấn sang 0,5m chiều ngang, từ 20m đến 150m bà Y lấn sang 02m. Giáp phần đuôi đất bà Y kéo dài đến cuối lô đất thì ông C đang sử dụng lấn sang 02m chiều ngang, chiều dài 50m, tổng diện tích khoảng 100m2. Buộc bà Y phải thỏa thuận với ông C để trả lại phần đất từ số mét 190 đến số mét 258 mà trước đây bà Y đã bán cho ông C.

Như vậy, đơn khởi kiện của nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với phần diện tích đất mà hiện nay ông Trương Minh C đang sử dụng (là phần đất nằm ở hướng Nam, sau đất bà Y). Theo ông Trương Minh C thì diện tích đất này do ông Trương Minh C nhận cho tặng từ ông Nguyễn Đình H vào năm 2003, có vợ chồng bà Y, vợ chồng ông A chứng kiến. Ông C có đề nghị đo đạc lại, nếu diện tích sử dụng lớn hơn diện tích nhận cho tặng thì ông chấp nhận trả lại cho nguyên đơn. Đáng lẽ, cấp sơ thẩm phải yêu cầu nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và xác định vợ chồng ông Trương Minh C là bị đơn trong vụ án mới giải quyết đầy đủ các yêu cầu của nguyên đơn, nhưng chỉ đưa ông C vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không xem xét, đánh giá ông Trương Minh C có sử dụng lấn sang đất của nguyên đơn như trong đơn khởi kiện đã nêu hay không là bỏ sót yêu cầu của nguyên đơn.

Góp ý