Bản án dân sự phúc thẩm số 215/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Về nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Phùng Ngọc H và bà Nguyễn Thị Kim H1 khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Huỳnh Quốc H3, bà H và bà H1 cho rằng, phần diện tích đất mà ông H3 đang sử dụng xây dựng nhà là phần diện tích đất thuộc thửa 911 mà bà H và bà H1 đã nhận chuyển nhượng của bà Đặng Thị T1. Toà án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H và bà H1 nên các nguyên đơn đã làm đơn kháng cáo. Đồng thời bà T1 cho rằng bà không chuyển nhượng phần còn lại của thửa 304, mà do người khác giả mạo chữ ký lập thủ tục ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H3 nên bà T1 kháng cáo yêu cầu ông H3 trả đất.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 864/2020/KLGĐ ngày 28/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L thì chữ ký của bà T1, ông G cùng con là Bùi Chí L trong Hợp đồng uỷ quyền số 171 ngày 10/10/2018 định đoạt 153m2 đất thuộc một phần thửa 304 không phải là của bà T1, ông G và ông L, vì vậy việc uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn N1, sau đó ông N1 đại diện thực hiện chuyển nhượng cho ông N, ông N chuyển nhượng cho ông H3 là không đúng ý chí của bà T1, ông G và ông Chí L. Do ông N1, ông N không tham gia tố tụng, nên không có cơ sở xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông H3 có thực tế đúng quy định pháp luật hay không.

(ii) Qua xem xét hồ sơ cấp quyền sử dụng của bà Nguyễn Thu C thấy rằng: Theo Báo cáo số 2588/PTNMT-BN ngày 01/7/2022 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ thì bà C là chủ sử dụng thửa đất số 303 tờ bản đồ số 17 trên cơ sở được tặng cho từ bà Nguyễn Thị N2, bà C được điều chỉnh đứng tên vào ngày 04/10/2019, việc cấp quyền sử dụng đất của bà C không có tiến hành đo đạc thực tế. Ngày 07/10/2019, bà C có đơn xin chuyển mục đích đất của thửa 303 tờ đất BHK sang đất ODT, diện tích 557m2. Ngày 02/12/2019, bà C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 303 loại đất ODT. Việc cấp quyền sử dụng đất cho bà C không tiến hành đo đạc, chỉ dựa vào Trích lục bản đồ địa chính. Theo Trích lục bản đồ địa chính ngày 14/10/2019 thì thửa đất số 303 của bà C có cạnh hướng Bắc giáp thửa đất 910 của bà H1, đối chiếu với đường đá xanh đối diện thửa 910 thì cạnh hướng Nam của đường đá xanh và cạnh hướng Bắc của thửa 303 là một đường thẳng. Tuy nhiên thực tế bà C đã sử dụng luôn toàn bộ thửa 910 làm cho bà H1 và bà H mất toàn bộ diện tích của một trong hai thửa đất đã nhận chuyển nhượng của bà T1. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, bà C không tham gia tố tụng, các diện tích đất chưa được đối chiếu với bản đồ địa chính, chưa xác định việc sử dụng đất của các bên có phải sai ranh giới sử dụng hay không, trong khi đó tại phiên toà, bà T1 lại trình bày cho rằng, đất của bà C cũng do gia đình bà T1 chuyển nhượng, vấn đề này chưa thu thập làm rõ.

(iii) Theo Công văn số 3769/UBND-NC ngày 16/4/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Đ thì Uỷ ban không xác định được có tồn tại thửa đất 304 tờ bản đồ số 17 trên trích lục bản đồ địa chính hay không. Trong khi đó Uỷ ban đã công nhận quyền sử dụng thửa đất này và cấp giấy phép xây dựng cho ông H3 (BL 105), Uỷ ban cần phải xác định giá trị pháp lý của việc cấp quyền sử dụng các thửa đất cho bà H, bà H1, ông H3 và bà C, việc mất một thửa đất trên thực tế là do sử dụng sai ranh giới hay do việc cấp quyền sử dụng đất có sai sót cũng cần phải được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai xác định.

Từ những nhận định trên, có cơ sở huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý