Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2023/DS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Về sự tham gia của người tiến hành tố tụng: Theo như hồ sơ vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn Bà Võ Thanh T với bị đơn Bà Nguyễn Kim L, cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đã được Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm. Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 22/2019/DS-ST ngày 01/11/2019; biên bản nghị án ngày 01/11/2019; biên bản phiên tòa ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện T đều có thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: Thẩm phán- chủ tọa phiên tòa là ông Nguyễn H; các Hội thẩm nhân dân có ông Trần Hoàng Việt và ông Nguyễn Văn H tham gia giải quyết vụ án. Ngày 08/6/2020 bản án trên bị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án và giao hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung (theo bản án phúc thầm số 57/2020/DS-PT ngày 08/6/2020). Tuy nhiên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện T giải quyết lại vụ án thì Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H lại tiếp tục tham gia xét xử vụ án.

Việc Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H đã tham gia xét xử tại hai bản án dân sự sơ thẩm trong cùng một vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì tại khoản 3 Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây: … 3. Họ đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.”. Như vậy, trong trường hợp này Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

(ii) Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bị đơn L có nhiều lời khai (BL 65,67a,67g,290,616,741) “về việc xác lập, ký kết và chứng thực hợp đồng có mặt hay không có mặt bà T” trước sau mâu thuẫn, không thống nhất; cũng như lời khai của người làm chứng Sơn (BL 679,772) trước sau không thống nhất nhưng cấp sơ thẩm cũng không làm rõ; bà L có lời khai do bị trầm cảm nhưng cũng không chứng minh có việc trầm cảm. Vấn đề này đã được cấp phúc thẩm trước đây đặc ra nhưng qua nghiên cứu hồ sơ chưa thấy làm rõ. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn không thừa nhận có giao dịch chuyển nhượng nhà đất và không có ký vào các giấy tờ chuyển nhượng. Ông Th thừa nhận có xác lập và ký “Hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/9/2008”, bà T cho rằng Ông Th làm các hợp đồng với mục đích vay tiền nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo, Ông Th ký thay luôn cho nguyên đơn và bị đơn; Ông Th không thừa nhận có ký hay viết vào Giấy tay chuyển nhượng nhà và đất ngày 23/9/2008 và không có nhận số tiền chuyển nhượng 150.000.000 đồng, chỉ nhận số tiền vay 40.000.000 đồng. Theo bà L trình bày thì thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã thỏa thuận giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 50.000.000 đồng, giá trị nhà 100.000.000 đồng nên tổng số tiền là 150.000.000 đồng và Ông Th đã nhận đủ số tiền này. Cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ giá trị quyền sử dụng đất thời điểm chuyển nhượng ở địa phương tại thời điểm chuyển nhượng để đối chiếu và kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác để đánh giá toàn diện vụ án, tài sản này là tài sản chung hay riêng, ai có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay đây chỉ là hợp đồng giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác. Cấp sơ thẩm chỉ nhận định việc cụ Tiên và cụ Pha cho tặng nhà đất chỉ nói miệng, không giấy tờ; căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn giữa Ông Th, bà T đăng ký vào năm 2003 và việc cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ông Th thì bà T biết nhưng vẫn không khiếu nại và UBND huyện T khẳng định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân Ông Th đứng tên là hoàn toàn phù hợp với thực tế và đúng theo pháp luật. Từ đó, cho rằng nhà đất cho trước khi kết hôn và UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân Ông Th nên Ông Th là người chủ sử dụng đất hợp pháp và có quyền định đoạt là chưa đảm bảo quy định pháp luật.

Việc cấp sơ thẩm để một Hội thẩm nhân dân cấp sơ thẩm tham gia xét xử hai bản án trong cùng một vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ còn thiếu sót. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của các vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích cho của bị đơn và của Kiểm sát viên. Căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 2 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Bài viết liên quan

Góp ý