TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI

(Theo Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Xâm phạm quyền bình đẳnggiới được hiểu là các hành vi vi phạm pháp luật, gây ra sự bất công hoặc phân biệt đối xử dựa trên giới tính, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và cơ hội bình đẳng của cá nhân trong xã hội.

2. Tội danh

“Điều 165. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới

1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm này xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người. Đây là quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Có thể nói một cách ngắn gọn, người phạm tội xâm phạm quyền bình đẳng giới chỉ có hành vi “cản trở” người khác nhưng hành vi này lại được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.

- Khi xác định hành vi khách quan của tội xâm phạm quyền bình đẳng giới cần chú ý:

+ Nếu người phạm tội dùng vũ lực để cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế mà gây thương tích cho người bị cản trở hoặc gây chết người thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng, ngoài tội xâm phạm quyền bình đẳng giới.

+ Điều luật quy định người phạm tội thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào mà không miêu tả hình thức của hành vi, trong đó có hành vi cấu thành một tội phạm độc lập nhưng cũng có hành vi chưa cấu thành một tội phạm độc lập, miễn là người phạm tội thực hiện được ý muốn của mình là cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.

- Hậu quả:

+ Hậu quả của hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới là làm cho người khác không tham gia được vào các hoạt động trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.

+ Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Người phạm tội có thể đã có hành vi cản trở nhưng người bị cản trở vẫn tham gia được vào các hoạt động trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt (chưa đạt được hậu quả nhưng đã hoàn thành hành vi).

Lưu ý: Đối với các thiệt hại khác như tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của nạn nhân, nếu cấu thành tội phạm độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng với hành vi và hậu quả đã gây ra cho bị hại. Nếu các thiệt hại này đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm khác thì không được tính để xác định hậu quả của tội xâm phạm quyền bình đẳng giới.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, không phân biệt hình thức cố ý nào, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là xâm phạm quyền bình đẳng giới, thấy trước hậu quả của hành vi do mình thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là xâm phạm quyền bình đẳng giới hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn cho người khác không thực hiện được các hoạt động trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, người phạm tội này có thể là bất cứ ai từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).

Trên thực tế người phạm tội này thường là người có trách nhiệm hoặc có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó.

Trân trọng./.

Góp ý