TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

(Theo Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Bắt, giữ người trái pháp luật được hiểu là hành vi ngăn cản, tước đoạt sự tự do dịch chuyển thân thể của người khác trái với quy định của pháp luật.

2. Tội danh

“Điều 157. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật

1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với người đang thi hành công vụ;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát;

b) Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tự do cá nhân của con người, của công dân mà ở đây là người bị hại. Đây là những quyền cơ bản của người bị hại và được pháp luật bảo vệ.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thể hiện qua 03 hành vi chính như sau:

- Thứ nhất, hành vi bắt người trái pháp luật:

+ Là hành vi bắt người mà không có lệnh của những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không thuộc trường hợp bắt người phạm tội quả tang (Điều 111 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015), không thuộc trường hợp bắt người có lệnh truy nã (khoản 1 Điều 112 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015) hoặc tuy có lệnh của những người có thẩm quyền nhưng việc tiến hành bắt không đúng thủ tục như bắt người vào ban đêm (sau 22 giờ) mà không thuộc trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc bắt người khác với mục đích riêng.

+ Hình thức bắt người khác là dùng vũ lực (trói, khóa tay, …) hoặc đe doạ dùng vũ lực buộc người bị bắt phải đến nơi mà người phạm tội đã chọn. Nếu trong quá trình bắt mà gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, của người bị hại thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm phạm.

Ví dụ: Điều 126 về Tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội hoặc Điều 136 về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

- Thứ hai, hành vi giữ người trái pháp luật: 

+ Là hành vi không cho người khác di chuyển hoặc đi đâu vượt ra ngoài sự kiểm soát của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Mục đích giữ người trái pháp luật không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Ví dụ: giữ con nợ trên xe ô tô, đe dọa buộc chỉ đường để chở đến nhà gia đình để đòi tiền.

- Thứ ba, giam người trái pháp luật:

+ Là hành vi cách ly người khác trái pháp luật ở một địa điểm và trong một khoảng thời gian nhất định.

Ví dụ: Chủ nợ nhốt con nợ trong phòng khách sạn 12 tiếng để ép con nợ viết giấy vay nợ…

Lưu ý: 

- Người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có thể thực hiện cả ba hành vi: bắt, giữ hoặc giam người hoặc chỉ thực hiện một trong ba hành vi hoặc hai trong ba hành vi đó.

- Hành vi bắt, giữ hoặc giam người nêu trên phải trái pháp luật. Tính trái pháp luật thể hiện qua hành vi bắt, giữ hoặc giam người là việc bắt, giữ hoặc giam người nằm ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.

- Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo quy định tại Điều 377 Bộ luật Hình sự là trường hợp đặc biệt, áp dụng đối với chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn so với trường hợp quy định tại điều luật này.

- Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhằm mục đích chiếm đoạt nạn nhân (dưới 16 tuổi) cũng không phải là hành vi khách quan của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mà là hành vi khách quan của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự.

- Thủ đoạn thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, dùng sức mạnh về vật chất như trói, nhốt vào thùng xe, nhà kho… hoặc bạo lực về tinh thần như đe dọa bắn, đánh nếu không để cho bắt… Tuy nhiên, các thủ đoạn này không có ý nghĩa đối với việc định tội danh.

Hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc mà nếu có thì là dấu hiệu định khung hình phạt. Tội phạm hoàn thành kể từ khi người phạm tội có hành vi nhằm bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Trân trọng./.

Góp ý