1. Giải thích từ ngữ
Cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đã cố ý tiết lộ thông tin hoặc tài liệu bí mật mà họ có trách nhiệm bảo vệ. Hành vi này có thể được thực hiện thông qua nhiều cách khác nhau như kể cho người khác nghe, cung cấp tài liệu hoặc lan truyền tin tức bí mật. Hành vi này xảy ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân liên quan.
2. Tội danh
“Điều 361. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác
1. Người nào cố ý làm lộ bí mật công tác hoặc chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật công tác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 110, 337 và 342 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 100.000.000 đồng trở lên;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan, tổ chức;
e) Để người khác sử dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Điều 361 Bộ luật Hình sự quy định 02 tội phạm riêng biệt gồm: tội cố ý làm lộ bí mật công tác và tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác.
Khách thể của cả hai tội phạm trên là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc bảo mật của Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, thậm chí gây ra tác hại rất lớn, để người khác lợi dụng chống lại chế độ, gây mất đoàn kết hoặc đối phó với các chủ trương chính sách trước khi được thi hành.
Đối tượng tác động của tội phạm được nêu ngay trong cấu thành tội phạm, đó là: bí mật công tác. Bí mật công tác cũng là bí mật Nhà nước, nhưng được gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chứvu và gắn liền với nhiệm vụ công tác của người có chức vụ, quyền hạn.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác:
Người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi khách quan duy nhất là làm lộ bí mật công tác. Tuy nhiên, cách thức thực hiện hành vi này lại phụ thuộc vào chức vụ, quyền hạn, và tình huống cụ thể khi người phạm tội làm lộ bí mật.
Hành vi làm lộ bí mật công tác có thể thể hiện qua các hình thức như: kể lại bí mật mà mình biết cho người khác nghe; cung cấp tài liệu, tin tức bí mật cho người khác sử dụng; hoặc lan truyền những tin tức bí mật bằng nhiều cách như truyền miệng, đăng báo, truyền thanh, truyền hình, v.v.
Việc làm lộ bí mật Nhà nước luôn gắn liền với nhiệm vụ của người phạm tội. Chính vì lý do này, hành vi này mới được gọi là làm lộ bí mật công tác; nếu không có chức vụ, quyền hạn và không thực hiện nhiệm vụ, thì sẽ không thể làm lộ bí mật Nhà nước.
Đối với tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác:
Điều luật quy định ba hành vi khách quan gồm: chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác; mua bán tài liệu bí mật công tác; và tiêu hủy tài liệu bí mật công tác.
Hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác có nét tương đồng với hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu, điểm khác biệt là đối tượng bị chiếm đoạt không phải là tài sản mà là tài liệu bí mật công tác. So với việc chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác thường được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn phức tạp hơn.
Người phạm tội chiếm đoạt bí mật công tác, thường là người có chức vụ, quyền hạn, nên hành vi chiếm đoạt thường được thực hiện qua việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, và có thể coi là hành vi tham ô tài liệu bí mật công tác. Tuy nhiên, ngoài hành vi tham ô, người phạm tội còn có thể sử dụng các thủ đoạn khác như: cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, công nhiên chiếm đoạt, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt. Nếu những hành vi này được thực hiện trong việc chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác thì vẫn cần phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn để được coi là hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác.
Hành vi mua bán tài liệu bí mật công tác cũng tương tự như việc mua bán hàng hóa, nhưng trong trường hợp này, tài liệu bí mật công tác là đối tượng của giao dịch. Hành vi này bao gồm việc bán tài liệu bí mật công tác mà mình có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn; mua, xin, nhặt được hoặc chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác để bán lại; tàng trữ nhằm mục đích bán lại; vận chuyển để bán hoặc vận chuyển giúp cho người khác bán các tài liệu bí mật công tác.
Tiêu hủy tài liệu bí mật công tác là hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu bí mật công tác, làm cho tài liệu đó mất giá trị và không thể sử dụng được nữa, chẳng hạn như đốt cháy, xé bỏ, xóa dữ liệu trong máy tính, hoặc phá hỏng máy móc chứa tài liệu bí mật công tác. Hành vi này tương tự với hành vi tiêu hủy tài liệu bí mật Nhà nước quy định tại Điều 263, nhưng khác ở chỗ: người thực hiện hành vi tiêu hủy tài liệu bí mật công tác phải là người có chức vụ, quyền hạn, và lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tiêu hủy tài liệu bí mật liên quan đến nhiệm vụ của mình.
Hậu quả của cả hai tội phạm này đều gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành ngay khi hành vi khách quan xảy ra.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Cả hai tội đều được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hậu quả của tội phạm nhưng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc để hậu quả xảy ra.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Tương tự như các tội phạm về chức vụ khác, người thực hiện tội "cố ý làm lộ bí mật công tác" hay tội "chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác" cũng được coi là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức khi thi hành công vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, người có chức vụ, quyền hạn đã cố ý làm lộ bí mật thuộc phạm vi công tác của mình.
Bên cạnh đó, chủ thể của tội phạm phải đáp ứng điều kiện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trân trọng./.