
Thực hiện nghĩa vụ là gì? Có những loại nghĩa vụ nào để thực hiện?
Bài viết này sẽ phân tích chi tiết các loại nghĩa vụ theo pháp luật, cùng với những vướng mắc thường gặp liên quan đến vấn đề này: Thực hiện nghĩa vụ là việc hoàn thành các yêu cầu pháp lý, có thể thông qua hành động hoặc không hành động, tức là thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định. Vậy, theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, có những loại nghĩa vụ nào?
MỤC LỤC
1. Quy định chung về thực hiện nghĩa vụ?
3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự?
4. Điều kiện đối với đối tượng của nghĩa vụ là gì?
5. Quyền và nghĩa vụ của một số trường hợp trong giao dịch dân sự?
Trả lời:
1. Quy định chung về thực hiện nghĩa vụ?
Trong giao lưu dân sự, nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự là người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Việc thực hiện nghĩa vụ phải được tiến hành tại một nơi nhất định, vào một thời điểm nhất định do các bên thoả thuận. Về mặt địa điểm, nếu không có g thoả thuận thì, đối với bất động sản là nơi có bất § động sản, trong trường hợp đối tượng thực hiện nghĩa vụ là bất động sản, nếu đối tượng là động sản thì nơi thực hiện nghĩa vụ là địa điểm cư trú hoặc trụ sở của người cö quyền. Về thời hạn, nếu không có thoả thuận và pháp luật cũng không quy định thì các bên có thể thực hiện hoặc yêu cầu thực hiện trước, thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đối với nhau. Một trong các bên của hợp đồng song vụ có quyền hoãn thực hiện nghĩa nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lí.
2. Khái niệm nghĩa vụ dân sự?
Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định của pháp luật hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia.
Việc một bên phải thực hiện hoặc không được thực hiện một số hành vi nhất định có thể không được đặt dưới sự bảo đảm của nhà nước bằng pháp luật, pháp luật không buộc người đó phải thực hiện, họ thực hiện công việc đó hoàn toàn theo lương tâm và vì uy tín của mình. Ở phương diện này, nghĩa vụ được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức và thuộc về nghĩa vụ đạo đức. Chẳng hạn, giúp người già qua đường, giúp đỡ người tàn tật, nhường chỗ cho người già, phụ nữ trên xe buýt... là những công việc phải làm vì đạo đức.
Những công việc phải làm hoặc không được phép làm theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ pháp luật nói chung. Trong đó, các công việc phải làm hoặc không được phép làm theo quy định của pháp luật dân sự là nghĩa vụ dân sự.
Nghĩa vụ có thể được hiểu là một bộ phận không tách rời trong nội dung của một quan hệ pháp luật dân sự. Bao gồm những hành vi mà một bên chủ thể phải thực hiện vì lợi ích của chủ thể bên kia như chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc đã được các bên tham gia quan hệ đó hoặc pháp luật xác định v.v. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ trước quyền yêu cầu của phía bên kia.
Mặt khác, nghĩa vụ còn được hiểu là một quan hệ pháp luật, trong đó quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể phát sinh từ quan hệ đó phải được thực hiện dưới sự đảm bảo của pháp luật.
Các Bộ luật dân sự của Việt Nam thời Pháp thuộc (Bộ dân luật Bắc kì năm 1931 và Bộ dân luật Trung kì năm 1936) đã có những định nghĩa về nghĩa vụ dân sự:
"Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đoi với một hay nhiều người nào đó.
Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa vụ gọi là người chủ nợ".
"Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên bó buộc một hay nhiều ngiỉời phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó, người bị bó buộc là người mắc nợ hay trái hộ, người được hưởng là chủ nợ hay trái chủ".
"Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì không thể tố tụng trước tòa án được".
"Nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên là nghĩa vụ không thể cưỡng bách thi hành".
Theo quy định trong hai Bộ dân luật nói trên thì ngoài nghĩa vụ thuộc về luật thực tại còn bao gồm nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên. Thực ra, nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên chỉ được đưa vào khái niệm cho hợp với truyền thống và phong tục của người Á Đông mà hoàn toàn không có sự cưỡng chế của pháp luật. Vì vậy, dù đã được quy định trong Bộ luật nhưng nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên (nghĩa vụ tự nhiên) vẫn chỉ là nghĩa vụ luân lí.
Nghĩa vụ được định nghĩa tại Điều 274 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
"Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thế khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).
3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự?
Nếu nhìn nhận nghĩa vụ ở trạng thái là một quan hệ pháp luật dân sự thì so với các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ nghĩa vụ có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý giữa ít nhất là hai người đứng về hai phía chủ thể khác nhau.
Dù được hình thành theo thoả thuận hay theo luật định thì nghĩa vụ luôn là sự ràng buộc giữa các bên về việc phải làm hay không được làm một việc nhất định. Bên phải làm một công việc nếu không làm sẽ phải gánh chịu chế tài của luật. Tuỳ từng trường hợp, mỗi bên trong nghĩa vụ có thể có nhiều người hoặc nhiều chủ thể khác tham gia nhưng cũng có thể mỗi một bên chỉ có một người tham gia.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thể đối lập nhau một cách tương ứng và chỉ có hiệu lực trong phạm vi giữa các chủ thể đã được xác định.
Nghĩa vụ và quyền luôn đi đôi với nhau, nói đến quyền là nói đến nghĩa vụ. Tuy nhiên, nói đến quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nghía vụ là nói đến sự đối lập, tính tương ứng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nói một cách cụ thể hơn, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Bên này có bao nhiêu quyền với phạm vi bao nhiêu thì bên kia sẽ có bấy nhiêu nghĩa vụ với phạm vi tương ứng. Mặt khác, trong quan hệ nghĩa vụ, cả chủ thể mang quyền, cả chủ thể mang nghĩa vụ luôn luôn được xác định một cách cụ thể nên quyền của bên này chỉ là nghĩa vụ của bên kia. Nói cách khác, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ này không liên quan đến người khác ngoài các chủ thể đã được xác định cụ thể. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ này có thể liên quan đến người thứ ba nhưng người thứ ba đó phải là người đã được xác định cụ thể trước.
Ví dụ, trong quan hệ cho vay, bên có quyền đòi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có thể người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người bảo lãnh đã được các bên xác định trước).Chính từ đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. Đồng thời cũng qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu. Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy quyền đân sự trong quan hệ pháp luật về sở hữu là quyền tuyệt đối.
Thứ ba, quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền nên quyền của các bên chủ thể là quyền đổi nhân.
Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ thể mang quyền được thực hiện bằng hành vi của chính họ thì trong quan hệ nghĩa vụ dân sự quyền của bên này lại được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể phía bên kia. Nói cách khác, quyền của bên này chỉ được đáp ứng khi bên kia đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ.Mặt khác, nếu việc thực hiện quyền trong quan hệ sở hữu là việc tác động trực tiếp đến vật thì trong nghĩa vụ dân sự người mang quyền dân sự không được tác động trực tiếp đến tài sản của người mang nghĩa vụ. Khi người mang nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó, người mang quyền chỉ có thể sử dụng các phương thức mà pháp luật đã quy định để tác động và yêu cầu người đó phải thực hiện nghĩa vụ cho mình. Nói cách khác, trong nghĩa vụ, quyền của người này là đối với người có nghĩa vụ bên kia chứ không đối với tài sản của họ.
4. Điều kiện đối với đối tượng của nghĩa vụ là gì?
- Phải đáp ứng được lợi ích nào đó cho chủ thể có quyền
Thông thường, lợi ích mà chủ thể có quyền hướng tới là một lợi ích vật chất (vật cụ thể, khoản tiền v.v.) nhưng cũng có thể là một lợi ích tinh thần.
Để chủ thể có quyền đạt được lợi ích vật chất nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là một vật cụ thể thì vật đó phải mang đầy đủ các thuộc tính cua hàng hoá (giá trị và giá trị sử dụng). Nếu đối tượng của nghĩa vụ là công việc thì việc phải làm hoặc việc không được làm phải hướng tới lợi ích của người có quyền. Khi làm hoặc không làm công việc đó sẽ đem đến cho bên kia lợi ích nhất định.
- Phải được xác định hoặc có thể xác định được:
Khi các bên giao kết hợp đồng để từ đó xác lập quan hệ nghĩa vụ đối với nhau, phải xác định rõ đối tượng của nghĩa vụ là công việc hay vật gì. Trong trường hợp nghĩa vụ được thiết lập theo quy định của pháp luật thì đối tượng đã được pháp luật xác định rõ trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là vật thì các bên phải xác định rõ về số lượng, trọng lượng, khối lượng, tính chất, tình trạng của tài sản thông qua việc kiểm đếm và các giấy tờ liên quan (nếu có). Nếu là tài sản hình thành trong tương lai thì phải có các giấy tờ liên quan xác định cụ thể về tài sản đó và các căn cứ để chứng minh tài sản đó chắc chắn sẽ hình thành và khi hình thành sẽ thuộc sở hữu của một trong các bên. Nếu là giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản thì bên đưa tài sản đó làm đối tượng của nghĩa vụ phải có đầy đủ bằng chứng chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu của mình.
- Đối tượng của nghĩa vụ có thể thực hiện được:
Nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là việc không thể thực hiện được sẽ không thoả mãn được lợi ích của chủ thể có quyền. Vì vậy, nếu đối tượng là tài sản thì phải là những tài sản có thể đem giao dịch được, nếu là công việc thì phải là những công việc có thể thực hiện được.
5. Quyền và nghĩa vụ của một số trường hợp trong giao dịch dân sự?
Trong việc mua bán tài sản khi các bên chủ thể của quan hệ mua bán tài sản có thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của bên mua bán tài sản được quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. Khi giao kết hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng mua bán tài sản nói riêng, hầu hết các bên chủ thể đều mong muốn đạt được sự thỏa thuận và thực hiện theo đúng thỏa thuận đó. Tuy nhiên việc thực hiện các hợp đồng trên thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra theo đúng nguyện vọng của các bên. Có thể là xuất phát từ nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau một trong các bên của hợp đồng hoàn toàn có thể vi phạm nghĩa vụ phát sinh theo chính thỏa thuận ban đầu của hai bên. Việc vi phạm này của một trong các bên sẽ làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên còn lại. Trong hợp đồng mua bán khi nào bên bán đã chuyển giao tài sản cho bên mua mà bên mua chưa kịp thanh toán tiền thì rủi ro sẽ nhiều hơn cho bên bán. Vì vậy quyền và lợi ích của bên bán có đạt được hay không lại hoàn toàn dựa vào việc thực hiện hành vi của bên mua.
Trân trọng./.