
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự không áp dụng trong trường hợp nào? Thời gian nào không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự? Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Những trường hợp mà thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự không được áp dụng ? Tôi có thể yêu cầu khởi kiện một vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp quyền sở hữu tài sản sau 05 năm, mặc dù hết thời hiệu 03 năm quy định? Liệu có trường hợp nào mà tôi vẫn có thể khởi kiện được không?
MỤC LỤC
1. Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
2. Thời gian không tính vào thời hiệu
3. Trường hợp nào thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu?
Trả lời:
1. Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện được hiểu là những trường hợp mà trong đó quyền khởi kiện không phụ thuộc vào thời gian.
Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu:
“Điều 155. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
4. Trường hợp khác do luật quy định.”
- Thứ nhất, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển giao cho người khác. Khi bị xâm phạm thì cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ bất kì lúc nào.
Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư, quyền kết hôn, quyền ly hôn; quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyển tự do sáng tạo, quyền của tác giả đối với tác phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Thứ hai, yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu: Quyền sở hữu là quyền đối với tài sản và luôn tồn tại khi tài sản còn. Vì thế, không áp dụng thời hiệu đối với việc khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên, nhằm ổn định các quan hệ dân sự và bảo đảm quyền, lợi ích cho người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai, pháp luật dân sự đã quy định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu. Theo đó, yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu sẽ bị hạn chế nếu quyền sở hữu đã được xác lập theo thời hiệu. Điều này có nghĩa rằng trong trường hợp một người đã chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai đối với tài sản thì chủ sở hữu của tài sản chỉ có thể khởi kiện yêu cầu bảo về quyền sở hữu của mình nếu việc chiếm hữu của người kia chưa đủ 10 năm đối với động sản, chưa đủ 30 năm đối với bất động sản. Cụ thể căn cứ theo Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
- Thứ ba, tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đối với những trường hợp tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì quyền khởi kiện không áp dụng thời hiệu. Đây là quy định mới so với Bộ luật dân sự năm cũ.
- Thứ tư, các trường hợp khác do luật quy định.
2. Thời gian không tính vào thời hiệu
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự bao giờ cũng là khoảng thời gian diễn ra liền nhau từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó có thể có một khoảng thời gian không được tính vào thời hiệu.
Căn cứ theo Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 156. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự
Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;
2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
a) Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
b) Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.”
- Như vậy, các khoản thời gian sau sẽ không được tính vào thời hiệu:
+ Khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng. Là khoảng thời gian làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
+ Khoảng thời gian xảy ra trơ ngại khách quan. Là khoảng thời gian do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
3. Trường hợp nào thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu?
Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong sự kiện. Căn cứ theo Điều 157 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 157. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.
2. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này.”
Theo quy định của pháp luật dân sự, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với tranh chấp quyền sở hữu tài sản thường là 3 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của bạn bị xâm phạm hoặc bạn biết hoặc phải biết về việc xâm phạm đó.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bạn vẫn có thể khởi kiện mặc dù đã quá thời hiệu 03 năm, nếu:
- Có sự thừa nhận nghĩa vụtừ phía bên bị kiện: Nếu bên bị kiện thừa nhận nghĩa vụ hoặc hành vi vi phạm quyền lợi của bạn, thời hiệu khởi kiện có thể được tính lại từ thời điểm thừa nhận này.
- Có sự kiện bất khả kháng hoặc lý do chính đáng: Nếu bạn không thể thực hiện quyền khởi kiện trong thời gian quy định vì lý do bất khả kháng (ví dụ, bị bệnh nặng, thiên tai, hoặc bị ngăn cản hợp lý khác), thời hiệu khởi kiện có thể được gián đoạn hoặc tạm hoãn.
Tuy nhiên, nếu không có những tình huống đặc biệt này, thì sau 05 năm, quyền khởi kiện của bạn có thể đã hết hạn và bạn sẽ không thể yêu cầu tòa án giải quyết.
Trân trọng./.