Quyết định giám đốc thẩm số 12/2023/KDTM-GĐT ngày 19/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng mua bán điện”

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2023/KDTM-GĐT ngày 19/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng mua bán điện”

Nội dung hủy án:

1. Công ty Điện lực G là chi nhánh của Tổng Công ty Điện lực M, nhân danh Tổng Công ty Điện lực M ký kết các Hợp đồng mua bán điện số 20/000486- PC10DD0522211 ngày 26-12-2020 với bên bán điện là hộ kinh doanh Chư Ngọc H (nay thay đổi chủ thể là Công ty T) và Hợp đồng mua bán điện số 20/000479- PC10DD0522201 ngày 26-12-2020 với bên bán điện là Công ty V. Trụ sở của Công ty Điện lực G tọa lạc tại thành phố P, tỉnh Gia Lai nên theo quy định tại b khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết”. Như vậy, hoạt động ký kết hợp đồng tại Công ty Điện lực G nêu trên chính là hoạt động của chi nhánh và hiện đang có tranh chấp; do đó, việc Tòa án Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của Công ty T và Công ty V là không trái với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng tại Văn bản ủy quyền số 4354/UQ-EVNCPC ngày 21/5/2019, Tổng Công ty Điện lực M ủy quyền cho cá nhân, không phải ủy quyền cho chi nhánh nhân danh mình thực hiện việc ký kết hợp đồng, do đó tranh chấp hợp đồng mua bán điện nêu trên không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh, từ đó xác định Tòa án nhân dân thành phố P thụ lý và giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền, là không chính xác.

2. Tại Đơn khởi kiện đề ngày 07-10-2021, người khởi kiện là Công ty T và Công ty V đều xác định người bị kiện là Tổng Công ty Điện lực M và đại diện là Công ty Điện lực G. Tuy nhiên, người khởi kiện yêu cầu Công ty Điện lực G phải cùng Tổng Công ty Điện lực M thanh toán tiền điện tạm tính đến ngày 30-9-2021 và lãi chậm trả theo quy định, trong khi Công ty Điện lực G chỉ là chi nhánh của Tổng Công ty Điện lực M và ký kết hợp đồng với nguyên đơn theo sự ủy quyền Tổng Công ty Điện lực M. Xét thấy: Tổng Công ty Điện lực M là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và Công ty Điện lực G là một chi nhánh của Tổng Công ty Điện lực M, hạch toán phụ thuộc, không có tư cách pháp nhân, hoạt động theo ủy quyền của Tổng Công ty Điện lực M nên theo quy định khoản 6 Điều 84 Bộ luật dân sự, Tổng Công ty Điện lực M có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do Công ty Điện lực G xác lập và thực hiện. Vì vậy trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải yêu cầu Công ty T và Công ty V sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, xác định Tổng Công ty Điện lực M là bị đơn, Công ty Điện lực G là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trên cơ sở đó giải quyết yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Tổng Công ty Điện lực M là bị đơn trong vụ án là có căn cứ; tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty Điện lực G cũng là bị đơn, từ đó buộc Công ty Điện lực G phải liên đới cùng Tổng Công ty Điện lực M thanh toán cho Công ty T và Công ty V số tiền 11.742.518.427 đồng là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Điện lực G.

3. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên buộc Tổng Công ty Điện lực M phải thanh toán cho Công ty T và Công ty V số tiền bán điện theo tổng sản lượng điện năng đã phát lên lưới qua hệ thống đo đếm và tiền lãi do chậm thanh toán mới chính xác. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc Tổng Công ty Điện lực M và Công ty Điện lực G liên đới thanh toán số tiền bán điện và tiền lãi do chậm thanh toán là không có cơ sở.

Bài viết liên quan

Góp ý