Quyết định Giám đốc thẩm số 02/2024/KDTM-GĐT ngày 08/01/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng tiêu thụ lúa”

Quyết định Giám đốc thẩm số 02/2024/KDTM-GĐT ngày 08/01/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng tiêu thụ lúa”

Nội dung hủy án:

1. Quá trình thực hiện sản xuất thu mua lúa giữa 02 bên phát sinh công nợ, trong cùng ngày 30/11/2018, Công ty X lập 03 Biên bản đối chiếu công nợ, cụ thể là Biên bản đối chiếu công nợ số 03/BBĐCCN-TMC ngày 30/11/2018 đối chiếu công nợ từ ngày 05/9/2016 đến ngày 25/1/2017, số nợ là 3.877.451.220 đồng; Biên bản đối chiếu công nợ số 01/BBĐCCN-TMC ngày 30/11/2018 đối chiếu công nợ từ ngày 10/2/2017 đến ngày 19/10/2017, số nợ là 2.183.650.767 đồng và Biên bản đối chiếu công nợ số 02/BBĐCCN ngày 30/11/2018 đối chiếu công nợ từ ngày 06/2/2018 đến ngày 02/8/2018, số nợ là 388.615.890 đồng. Công ty X căn cứ Hợp đồng số 001, khởi kiện yêu cầu Hợp tác xã X trả số tiền phát sinh vào các năm 2016, 2017 và 2018. Tuy nhiên, theo Bảng kê chi tiết thu mua lúa năm 2016 thì số nợ của năm 2016 phát sinh từ ngày 05/9/2016 đến ngày 14/1/2017, tức là trước khi ký Hợp đồng số 001 (ngày 15/01/2017). Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Hợp đồng số 001, tuyên buộc Hợp tác xã Vĩnh C1 phải trả khoản nợ vào năm 2016 trong khi không yêu cầu Công ty X cung cấp tài liệu, chứng cứ về giao dịch giữa Công ty X với Hợp tác xã X ký kết trước ngày 15/01/2017 là chưa đủ căn cứ. Mặt khác, Hợp đồng số 001 chỉ quy dinh việc sản xuất, thu mua lúa tại xã V B, không sản xuất thu mua tại địa phương khác. Tuy nhiên, căn cứ vào Biên bản làm việc ngày 28/4/2017 do B chỉ đạo sản xuất và phòng chống dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi thuộc Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện H, tỉnh Bạc Liêu thể hiện: việc thu mua lúa diễn ra không chỉ có xã V B mà còn có cả xã M và xã V. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Hợp đồng số 001 giải quyết việc thu mua lúa tại cả 03 xã V B, xã M và xã V là không đảm bảo giải quyết đúng phạm vi khởi kiện.

2. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty X cung cấp Biên bản đối chiếu công nợ số 04/BBĐCCN-TMC ngày 01/12/2018, trong đó tổng hợp số nợ của 03 biên bản đối chiếu công nợ là 6.449.717.822 đồng. Sau đó, Công ty X cho rằng Hợp tác xã X không đưa ra tài liệu làm rõ trách nhiệm 02 ghe lúa số lượng 87.605 kg và 47.513| kg, có tổng giá trị là 731.373.000 đồng; 02 xe lúa giá trị 133.485.414 đồng và hao hụt lúa đã nhập so với cắt ở đồng số lượng 204.000 kg tương đương 1.226.040.000 đồng, đồng thời trả hoa hồng, vận chuyển, hao hụt, chi phí khác cho Hợp tác xã X 275.000.000 đồng và cấn trừ số tiền Hợp tác xã Vĩnh C1 đã trả 200.000.000 đồng nên đã lập Biên bản làm việc ngày 07/5/2020 (BL679 - 680) xác định số nợ mà Hợp tác xã X phải trả là 8.065.616.291 đồng để khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Hợp tác xã X phải trả số nợ trên cùng lãi phát sinh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Hợp tác xã Vĩnh C1 đã ký vào Biên bản làm việc ngày 07/5/2020 là đương nhiên đã thừa nhận tổng số nợ cuối còn phải trả là 8.065.616.291 đồng. Tuy nhiên, ý kiến của Hợp tác xã X tại biên bản này là: “Kết luận: Hai bên chưa thống nhất nên đề nghị đưa vụ việc ra cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền”. Do vậy, nhận định này của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm là không phù hợp với tài liệu, chứng cứ liên quan.

 

Bài viết liên quan

Góp ý