Quyết định giám đốc thẩm số 01/2024/KDTM-GĐT ngày 27/01/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tổng đại lý bao tiêu khí dầu hóa lỏng”
Nội dung hủy án:
1. Theo nội dung tại Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu số 2120/HĐ- DKVN ngày 02-4-2015 được ký kết giữa Tập đoàn D với Công ty Cổ phần K (nguyên đơn), thì Tập đoàn D chỉ chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu PETROVIETNAM GAS, không chuyển quyền sở hữu cho Công ty K và thời hạn sử dụng nhãn hiệu là 05 năm. Tại Công văn số 253/DKVN-PC&KTr ngày 15-01-2020, Tập đoàn D đã thông báo cho Công ty K về việc chấm dứt Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu PETROVIETNAM GAS: “PVN thông báo cho Công ty Cổ phần K biết rằng việc sử dụng nhãn hiệu của Tập đoàn D của Công ty Cổ phần K chấm dứt vào ngày 31-01-2020...” và tại Quyết định số 6188/QĐ-DKVN ngày 17-02-2020, Tập đoàn D đã ủy quyền cho Tổng Công ty K2 (P) và Công ty Cổ phần K1 (PV GAS LPG) được quyền sử dụng nhãn hiệu PETROVIETNAM GAS. Như vậy, sau ngày 31-01-2020, Công ty K không còn quyền sử dụng vỏ bình Gas mang nhãn hiệu PETROVIETNAM GAS. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Tổng Công ty K2 và Công ty Cổ phần K1 (là hai Công ty được ủy quyền sử dụng nhãn hiệu) tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của hai công ty này. Tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được sai lầm này của Tòa án cấp sơ thẩm là thiếu sót.
2.Đối với vỏ bình Gas 12 kg: … Tại Điều 4.1.3 của Hợp đồng tổng đại lý bao tiêu khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) số 11/2019/CNMTr-MIENTRUNG/B2-A ngày 01-4-2019, hai bên thỏa thuận: “Bên A chỉ phải trả lại tiền ký quỹ bình 12 kg theo giá trị còn lại quy định trong Thông tư số 118/2010/TT-BTC ngày 10-8-2010 khi bên B đã trả toàn bộ số lượng bình 12 kg đã mượn và cung cấp cho bên A đầy đủ các chứng từ mượn bình 12 kg (bản gốc), tương ứng trong thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày xác nhận công nợ giữa hai bên”. Thỏa thuận này được hiểu, nếu Công ty G1 không trả toàn bộ số lượng bình Gas 12 kg đã mượn, thì Công ty K không trả lại tiền ký quỹ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét hoặc không đánh giá đúng nội dung thỏa thuận này, từ đó buộc Công ty G1: “… Nếu không trả được 53.981 vỏ bình Gas 12 kg thì phải trả bằng tiền (trị giá: 53.981 vỏ bình 12 kg x 500.000 đồng = 26.990.500.000 đồng)” là chưa đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty G1.
3.Đối với số tiền 9.437.500.000 đồng: Tại Điều 4.1.1 Hợp đồng tổng đại lý bao tiêu khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) số 11/2019/CNMTr-MIENTRUNG/B2-A ngày 01-4-2019, hai bên thỏa thuận: “Bình 12 kg: Ttrước khi nhận bình, bên B đặt tiền ký quỹ vỏ bình. Giá trị tiền ký quỹ bình do bên A ấn định và thông báo cho bên B”. Theo Biên bản thanh lý hợp đồng ngày 21-3- 2009 đối với Hợp đồng mua bán khí đốt hóa lỏng số 11/2008/CNSGMIENTRUNG/B2-A ngày 01-01-2008, thì số tiền 9.437.500.000 đồng được xác định là tiền đặt cọc 53.981 vỏ bình Gas loại 12 kg. Tại Bảng đối chiếu công nợ vỏ bình ngày 31-12-2020, giữa Công ty K với Công ty G1, thì xác định là tiền thế chân 53.981 vỏ bình Gas loại 12 kg là 9.437.500.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không làm rõ số tiền trên là tiền đặt cọc, ký cược hay ký quỹ đề giải quyết tranh chấp theo quy định của Bộ luật Dân sự, mà đã buộc Công ty G1 khi không trả được bằng vỏ bình Gas 12 kg thì phải trả bằng tiền đối với 53.981 vỏ bình 12 kg với giá 500.000 đồng/bình, thành tiền trị giá 26.990.500.000 đồng là áp dụng không đúng pháp luật dân sự khi giải quyết vụ án; dẫn đến số tiền tuyên buộc phải trả vượt quá số tiền 9.437.500.000 đồng là không đúng với thỏa thuận của hai bên khi ký kết Hợp đồng.