Nội dung hủy án:
1. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của các đương sự, có cơ sở xác định: Chị T và anh Q từng là vợ chồng, do cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn kéo dài nên ngày 23/11/2022 chị T và anh Q đã ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hành theo Quyết định số 08/2022/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hành. Theo quyết định trên thì về tài sản sản chung: tự thỏa thuận chia tài sản chung. Nhưng sau khi ly hôn xong, chị T và anh Q không tự phân chia được tài sản nên chị T nộp đơn khởi kiện đến tòa án để yêu cầu chia tài sản sau ly hôn và trả nợ chung. Đồng thời, Tòa án đã thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Võ Thị T2 yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Võ Thị T và anh Trần Thanh Q trả nợ cho chị T2 tiền gốc và lãi với số tiền 52.200.000 đồng (Năm mươi hai triệu hai trăm) (trong đó, tiền gốc: 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu) và tiền lãi: 7.200.000 đồng (Bảy triệu hai trăm)); đồng thời thụ lý yêu cầu độc lập của bà Trần Thị Q1 yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Võ Thị T và anh Trần Thanh Q trả nợ cho bà Q1 tiền gốc và lãi với số tiền 104.800.000 đồng (Một trăm lẻ bốn triệu tám trăm nghìn) (trong đó, tiền gốc: 80.000.000 đồng (T3 mươi triệu) và tiền lãi: 24.800.000 đồng (Hai mươi bốn triệu tám trăm nghìn)) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: “Tranh chấp chia tài sản chung, thực hiện nghĩa vụ trả nợ sau ly hôn” là chưa đầy đủ nên cần xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn, tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
2. Tại Biên bản xác minh về xe mô tô biểm kiểm soát 76F1- 100.61 (Bút lục 86) anh Phan Minh L là chủ tiệm cầm đồ Minh L trình bày: “Vào ngày 01/7/2022, anh Trần Thanh Q có cầm 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu VISION, biển kiểm soát 76F1-100.61 với số tiền 4.000.000 ( Bốn triệu). Đến nay anh Q chưa lấy xe. Nhưng hàng tháng anh Q trả lãi đầy đủ. Hiện nay chỉ còn nợ tiệm cầm đồ Minh L 4.000.000 đồng (Bốn triệu)”. Tại thời điểm thế chấp xe này (ngày 01/7/2022) anh Q, chị T chưa ly hôn (Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 08/2022/QĐST – HNGĐ ngày 23/11/2022) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa anh Phan Minh L là chủ tiệm cầm đồ Minh L vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án để xác minh làm rõ khoản tiền 4.000.000 đồng mà anh L khai hiện nay chỉ còn nợ 4.000.000 đồng là anh Q nợ hay chị T nợ, nợ chung hay nợ riêng, trường hợp không có tiền trả lãi hàng tháng cho chủ tiệm cầm đồ Minh L thì xe này được xử lý như thế nào (khoản nợ 4.000.000 đồng và tiền lãi ai sẽ trả và ai sẽ được nhận lại xe), ý kiến của anh L như thế nào về khoản tiền anh L cho rằng hiện anh Q đang nợ tiệm cầm đồ 4.000.000 đồng này. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ các vấn đề trên mà lại xác định chiếc xe này vẫn còn là tài sản chung của anh Q, chị T và giao xe này cho anh Q quản lý sử dụng là chưa có cơ sở pháp lý. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, anh Q và chị T đều xác nhận tại thời điểm định giá tài sản (ngày 13/7/2023) xe ô tô hiệu TOYOTA và xe mô tô hiệu VISION không có tại địa điểm nơi Hội đồng định giá tài sản là nhà, đất tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 02, thôn T, xã H, huyện N của anh Q, chị T, Hội đồng định giá tài sản chỉ căn cứ vào lời khai của anh Q, chị T và Hợp đồng cầm cố tài sản ngày 01/07/2022 được lập giữa anh Q và dịch vụ cầm đồ Minh L với số tiền thực cầm là 4.000.000 đồng để xác định chiếc xe mô tô hiệu VISION là 4.000.000 đồng và xe ô tô hiệu TOYOTA là 86.000.000 đồng (Tám mươi sáu triệu), không đến tại địa điểm có xe để định giá là không đúng quy định về định giá tài sản.
3. Đối với khoản nợ 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu) theo trình bày của chị Võ Thị T và theo yêu cầu của chị Võ Thị T2 là 45.000.000 đồng tiền gốc và lãi 7.200.000 đồng (Bảy triệu hai trăm). Tổng cộng, gốc và lãi là 52.200.000 đồng (Năm mươi hai triệu hai trăm). Chị T và anh Q không thống nhất về khoản nợ này. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Trần Thanh Q đều thừa nhận có việc chị Võ Thị T2 chuyển 45.000.000 đồng vào tài khoản đứng tên Trần Thanh Q tại Ngân hàng B, sau đó anh Q và chị T đã dùng số tiền này để trả khoản nợ chung tại Ngân hàng B. Tuy nhiên, anh Q cho rằng đây là số tiền chị T2 vay mượn của vợ chồng anh nên trả lại chứ không phải vợ chồng anh vay mượn của chị T2. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ có hay không có việc chị T2 vay mượn tiền của anh Q, chị T, nếu có thì ai là người trực tiếp cho chị T2 vay mượn, mục đích vay mượn tiền của chị T2 là để làm gì, có thỏa thuận về lãi suất hay không, hình thức cho vay mượn là đưa tiền mặt trực tiếp hay chuyển khoản, cho mượn một lần hay nhiều lần, ngày tháng năm cho vay mượn tiền mà chỉ thu thập chứng cứ là bản sao kê tài khoản 0571000038183 mang tên anh Trần Thanh Q để nhận định: “... anh Q không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời khai của anh Q là có căn cứ. Do vậy có căn cứ xác định số tiền 45.000.000 đồng vay nợ từ chị T2 mặc dù do chị T đơn phương xác lập với chị T2 nhưng đã được chị T, anh Q sử dụng vào mục đích chung trong thời kỳ hôn nhân, nên xác định đây là nợ chung và vợ chồng phải có nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo quy định tại Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình” là chưa có căn cứ pháp lý vững chắc để buộc anh Q, chị T phải có trách nhiệm trả 45.000.000 đồng đã vay cho chị Võ Thị T2. Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm anh Q trình bày: “Vợ chồng anh không nợ chị T2 số tiền 45.000.000 đồng, số tiền này chị T2 mượn của vợ chồng anh Q do chị T đưa, chị T2 trả lại chuyển qua tài khoản của anh Q là chủ đích của chị T và yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét cho kiểm tra xác minh số tài khoản của chị Võ Thị T có số 1020393180 và anh Q trình bày chị T còn nhiều lần gửi tiền từ ngân hàng cho chị T2 mượn, đồng thời chị T chuyển khoản cho chị T2 qua số tài khoản 04437113401 giao dịch qua lại trong thời gian trước khi chuyển khoản tiền 45.000.000 đồng qua tài khoản của anh Q”. Đây là tình tiết phát sinh mới tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử không thể làm rõ ngay tại phiên tòa phúc thẩm.
4. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm nhận định: Chị T2 yêu cầu anh Q, chị T phải trả nợ gốc 45.000.000 đồng và 7.200.000 đồng tiền lãi theo mức lãi suất 12%/năm, việc xác lập vay mượn giữa chị T2 với anh Q, chị T không có thỏa thuận về lãi suất và cũng không có kỳ hạn vì vậy việc yêu cầu trả lãi của chị T2 Hội đồng xét xử sơ thẩm không chấp nhận là không chính xác.
5. Về cách tính án phí dân sự sơ thẩm: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chỉ tính án phí đối với phần tài sản của nguyên đơn, bị đơn được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba, chưa tính án phí của nguyên đơn, bị đơn đối với phần tài sản thực hiện với bên thứ ba là không đúng theo hướng dẫn tại điểm b khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.