Nội dung hủy án:
1. Về việc giao quản lý tài sản: Án sơ thẩm tuyên giao cho bà C thửa đất 6130b, do bà C đang bị tuyên bố mất tích nên tạm giao phần tài sản của bà C cho ông T quản lý, chăm sóc cho đến khi bà C về có trách nhiệm giao lại cho bà C là không đúng theo quy định tại Điều 69 Bộ luật dân sự. Trường hợp này tài sản của bà C được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của bà C là người mất tích quản lý. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa cha mẹ của bà C tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định có đồng ý nhận quản lý tài sản của bà C hay không là thiếu người tham gia tố tụng.
2. Về nguyên tắc chia tài sản: Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông T, bà C tạo lập được 02 thửa đất 1838, thửa 6130b và tài sản trên đất là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên án sơ thẩm không nhận định hay căn cứ hoàn cảnh, công sức đóng góp trong việc tạo lập và duy trì tài sản của các bên. Tòa án chỉ cho rằng cần giao cho ông T nhiều tài sản hơn để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ chung, nên tuyên chia cho ông T tổng giá trị là 4.071.860.795 đồng, chia cho bà C tổng giá trị tài sản là 1.721.560.794 đồng là không đảm bảo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về nợ chung: Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết sơ thẩm, ông T yêu cầu nhận trả toàn bộ các khoản nợ chung của vợ chồng là 2.380.000.00 đồng. Tuy nhiên án sơ thẩm chỉ phân chia tài sản chung, không xem xét đối với yêu cầu nhận trả các khoản nợ chung của ông T là giải quyết chưa đầy đủ yêu cầu khởi kiện, vi phạm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
4. Về yêu cầu độc lập: Bà Phan Thị N - mẹ của ông T có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án công nhận một phần diện tích đất thuộc thửa 1838 mà ông T bà C đã xây dựng cho bà Như. Ngày 31/8/2023 Tòa án thụ lý yêu cầu độc lập của bà Như. Tuy nhiên quá trình giải quyết sơ thẩm và tại các phiên họp hòa giải công khai chứng cứ, ông T đều không có ý kiến trình bày về việc có đồng ý yêu cầu độc lập của bà Như hay không, Tòa án cũng không thu thập tài liệu chứng cứ thể hiện ý chí của ông T bà C về việc tặng cho bà Như một phần diện tích thuộc thửa 1838, mà tuyên chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Như là thiếu cơ sở.
5. Về án phí DSST: Án sơ thẩm buộc ông T phải chịu 63.647.800 đồng án phí là không đúng theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326. Bởi lẽ ông T được chia tổng giá trị tài sản sau khi trừ nghĩa vụ bù chênh lệch cho bà C với số tiền là 4.071.860.795 đồng, không giải quyết về nợ chung, nên ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 112.071.861 đồng (Chênh lệch 48.424.061 đồng).
6. Ngoài ra, tại Biên bản nghị án (bút lúc số 104), Hội đồng xét xử quyết định biểu quyết: Buộc ông Huỳnh Đức T có nghĩa vụ bù chênh lệch giá trị tài sản cho bà Trần Thị C Số tiền 614.466.363 đồng và phải chịu 54.946.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 10.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, còn phải nộp số tiền 44.946.000 đồng. Bà Trần Thị C phải chịu 54.946.000 đồng. Trong khi đó, tại mục 4, 5 quyết định của Bản án sơ thẩm (bút lục 117): Buộc ông Huỳnh Đức T có nghĩa vụ bù chênh lệch giá trị tài sản cho bà Trần Thị C Số tiền 904.466.363 đồng và phải chịu 63.647.800 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 10.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, còn phải nộp số tiền 53.647.800 đồng. Bà Trần Thị C phải chịu 63.647.800 đồng. Như vậy, có sự mẫu thuẫn về số liệu giữa biên bản nghị án và bản án, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.