Bản án hành chính phúc thẩm số 360/2023/HC-PT ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai

Nội dung hủy án:   

(i) Ông T, bà L khởi kiện Quyết định 8515 và Quyết định số 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về việc giải quyết khiếu nại. Nhưng Bản án sơ thẩm giải quyết đối với Quyết định 3680/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về giải quyết khiếu nại lần đầu là chưa làm rõ đối tượng khởi kiện của vụ án.

(ii) Quyết định liên quan cần xem xét khi giải quyết vụ án là Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 20/9/2018 của UBND thành phố H về việc thu hồi 9.929,9m2 đất nông nghiệp công ích do UBND thị trấn X quản lý để GPMB thực hiện dự án đầu tư xây dựng Trường tiểu học X. Nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND thành phố H vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót theo quy định tại Điều 6 Luật Tố tụng hành chính.

(iii) Xét tính hợp pháp của Quyết định số 8515/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành Quyết định số 8515: Hình thức của Quyết định 8515 được ban hành đúng theo mẫu số 11. Quyết định cưỡng chế thu hồi đất (Ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02-6-2014 của Bộ trưởng Bộ T5). Sau khi ban hành quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 8208/QĐ-UBND ngày 24/9/2018 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hồ trợ và tái định cư đối với hộ ông Trần Đức T. UBND thị trấn X phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất huyện C tiến hành thực hiện công tác bồi thường, đã tiến hành thông báo nhiều lần (Lần 1, Thông báo số 589, ngày 28/9/2018; Lần 2, Thông báo số 651 ngày 15/10/2018), phối hợp với các tổ chức đoàn thể tổ chức vận động, tuyên truyền các hộ nhận tiền ngày 04/11/2018. Nhưng có 04 hộ, trong đó có hộ ông Trần Đức T không nhất trí nhận tiền và không bàn giao mặt bằng, nên UBND huyên Chương Mỹ ban hành quyết định cưỡng chế là có căn cứ. Tuy nhiên, hồ sơ chưa có tài liệu về trình tự, thủ tục, điều kiện cưỡng chế thu hồi đất nên Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở đánh giá về tính hợp pháp của quyết định theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013.

(iv) Tuy nhiên, xét Hợp đồng số 68/HĐ-UBND thấy không xác định rõ diện tích 134m2 thuộc thửa đất số mấy, tờ bản đồ nào.

(v) Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T bà L, có lúc yêu cầu giải quyết đối với thửa đất số 93, có lúc lại yêu cầu giải quyết đối với thửa đất số 90, tại bản án sơ thẩm cũng không thống nhất nội dung giải quyết thửa đất số 90 hay 93. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T, bà L cho rằng thửa đất số 90 và 93 là một.

Tuy nhiên, theo Bản đồ địa chính đo đạc năm 2005, tỷ lệ 1/500, được ký duyệt năm 2008, tờ bản dồ số 68; Sổ mục kê năm 2005 thể hiện: thửa đất số 90 và thửa đất số 93 là khác nhau, có vị trí, diện tích và người sử dụng trước khi bị thu hồi là khác nhau (thửa đất số 90, tờ bản đồ số 68 có diện tích 122,7m2, loại đất BCS, chủ sử dụng UBND thị trấn, phần ghi chú Nguyễn Thị D3”; Thửa đất số 93 có diện tích 156,5m2, loại đất BCS, chủ sử dụng: UBND thị trấn, ghi chú Trần Đức T”) và chưa được làm rõ thực tế ông T bà L quản lý, sử dụng thửa đất nào và 134m2 bị cưỡng chế thu hồi nằm ở thửa đất nào ông T bà L đang quản lý, sử dụng khi thu hồi. Nội dung này tại phiên tòa phúc thẩm không làm rõ được.

(vi) Đối với thửa đất số 70, diện tích 156,7m2, chủ sử dụng: UBND thị trấn, Ghi chú Trần Đăng D1”. Tại báo cáo số 259 ngày 05/12/2018 của UBND thị trấn X có nội dung tại Quyết định số 6206/QĐ-UBND ngày 24/9/2018 của UBND huyện C về việc phê duyệt chi tiết phương án bồi thường ..đối với hộ ông Trần Đăng D1 .... Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết đối với thừa đất số 70 theo yêu cầu khởi kiện của ông T bà L nhưng không đưa ông D1 vào tham gia tố tụng để làm rõ quyền khởi kiện của ông T bà L đối với thửa đất số 70, ông T bà L không được ông D1 ủy quyền khởi kiện là chưa đảm bảo quy định.

(vii) Đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 3690 ngày 17/6/2019 về việc giải quyết khiếu nại của ông T về việc đền bù đối với thửa đất số 90, trên cơ sở nội dung đơn khiếu nại của ông T yêu cầu giải quyết thửa đất số 90, tờ bản đồ 68 mà Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết. Nhưng ông T bà L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về giải quyết khiếu nại lần đầu. Trong hồ sơ không có Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019, do vậy không xác định được nội dung, hình thức của quyết định. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ đối với Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 có liên quan đến thửa đất ông T yêu cầu giải quyết trong vụ án này hay không, nhưng lại giải quyết đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 3690 ngày 17/6/2019 là chưa làm rõ nội dung yêu cầu khởi kiện.

Từ các phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy bản án sơ thẩm chưa làm rõ phạm vi, yêu cầu khởi kiện, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ còn nhiều mâu thuẫn không thể làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, đưa thiếu người tham gia tố tụng, do vậy cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý