Bản án hành chính phúc thẩm số 10/2022/HCPT ngày 28/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc Khiếu kiện quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

Nội dung hủy án:   

(i) Ngoài việc thụ lý, giải quyết, xét xử đối với các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là Quyết định 6341/QĐ-UBND và Quyết định 6691/QĐ-UBND cùng ngày 05/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, yêu cầu bồi thường thiệt hại thì Thông báo thụ lý vụ án số 04/TB-TLVA ngày 12/5/2016 và Bản án sơ thẩm số 01/2018/HCST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện S đã thụ lý và xét xử cả những yêu cầu không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính quy định tại Điều 3, Điều 193 Luật tố tụng hành chính gồm: Yêu cầu khôi phục nguyên hiện trạng các thửa đất nông nghiệp số 1703, 1704, 1671, 1378, thửa đất ở số 186 được giao theo Quyết định số 110 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và 1378 ở gò Đồng Tròn; Xác định thửa đất nông nghiệp số 1703 và 1704 thuộc xứ đồng Dộc Ống Bò và thửa đất số 186 tờ bản đồ số 6 gia đình được giao theo Quyết định số 110/QĐ-UB tại khu Cửa Rừng thôn Đ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình.

(ii) Tòa án nhân dân huyện S đã giải quyết thiếu các yêu cầu khởi kiện sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà không có căn cứ về việc các yêu cầu này đã được tách vụ án: Hành vi tổ chức cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật, phá dỡ công trình trên đất, xây dựng và hủy hoại tài sản cây cối, hoa màu, vật nuôi của Chủ tịch UBND huyện S và Chủ tịch UBND xã H đối với thửa đất nông nghiệp số 1703, 1704, 1671, 1378, thửa đất ở số 186 được giao theo Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H và khu đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và thửa 1378 ở gò Đồng Tròn.

(iii) Tại Thông báo thụ lý vụ án số 04/TA-TLVA ngày 12/5/2016 (BL 49), ngoài việc thụ lý yêu cầu khởi kiện đối với Quyết định 6341/QĐ-UBND ngày 05/11/2013 và Quyết định 6691/QĐ-UBND ngày 25/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S, Tòa án nhân dân huyện S còn thụ lý vụ án về việc yêu cầu khởi kiện hành vi cưỡng chế phá dỡ công trình, hành vi cưỡng chế thu hồi đất của Chủ tịch UBND xã H nhưng phần nêu những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không có yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBND xã H và cũng không có người bị kiện là Chủ tịch UBND xã H.

(iv) Theo quy định tại Khoản 1 Điều 193 Luật tố tụng hành chính và Mục 5 Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017, trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử phải xem xét tính hợp pháp của tất cả các quyết định hành chính khác có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan mà không phụ thuộc vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét tính hợp pháp của 02 quyết định hành chính bị khởi kiện mà không xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính khác có liên quan và quyết định giải quyết khiếu nại gồm:

- Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S về việc giải quyết khiếu nại lần hai (là quyết định nêu trong căn cứ ban hành quyết định hành chính bị kiện là Quyết định 6341/QĐ-UBND ngày 05/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S).

- Quyết định 39/QĐ-UBND ngày 22/4/2013 của Chủ tịch UBND xã H giải quyết đơn khiếu nại (lần đầu)

- Quyết định 09/QĐ-UBND ngày 29/01/2013 của Chủ tịch UBND xã H về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng

- Quyết định 08/QĐ-UB ngày 25/01/2013 của Chủ tịch UBND xã H về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.

- Quyết định 229/QĐ-UBND ngày 06/12/2012 của Chủ tịch UBND xã H về việc đình chỉ thi công xây dựng công trình vi phạm trật tự xây dựng.

- Quyết định 234/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 của Chủ tịch UBND xã H về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng.

- Quyết định 100/QĐ-XPHC ngày 31/7/2012 của Chủ tịch UBND xã H ban hành xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

- Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 của UBND huyện S về việc thu hồi đất nông nghiệp, đất ở của các hộ gia đình cá nhân thôn Thượng, Đ, xã H để GPMB thực hiện dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường H – Ga, đê tả trong đó hộ gia đình ông Đặng Đình H bị thu hồi 282,6m2 đất nông nghiệp tại các thửa 1703, 1704, 1378 tờ bản đồ 01 và 105,6m2 đất ở nông thôn tại các thửa 04, 186 tờ bản đồ 06 (mà Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S yêu cầu Ban quản lý dự án huyện S lập phương án điều chỉnh đối với diện tích 17,2m2 đất thuộc thửa 186 tờ bản đồ 06 của hộ gia đình ông H).

- Quyết định 110 QĐ/UB Ngày 25/01/1995 của UBND xã H về việc thanh lý đất đầu thừa đuôi thẹo (mà Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S yêu cầu UBND xã H xác định rõ diện tích đất thanh lý cho ông H).

(v) Xác định sai và đưa thiếu người tham gia tố tụng, cụ thể:

- Theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên người bị kiện đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông H và bà Quyền là UBND huyện S và UBND xã H. Tòa án cấp sơ thẩm xác định UBND huyện S và UBND xã H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng, cần phải xác định là Người bị kiện.

- Đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng là: Chủ tịch UBND xã H, Ban quản lý dự án huyện S (tổ chức được Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 giao nhiệm vụ lập phương án điều chỉnh đối với diện tích 17,2m2 đất đã bị thu hồi), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S (cơ quan được Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 giao tiến hành điều tra, làm rõ hành vi sửa chữa nội dung Quyết định 110/1995), thành viên khác trong hộ gia đình ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bị thu hồi đất, bị cưỡng chế áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

(vi) Trang 7 của Bản án nhận định về thời hiệu khởi kiện theo Đơn khởi kiện nộp ngày 10/12/2013 nhưng trong hồ sơ vụ án không có tài liệu này. Mặt khác, theo Thông báo trả lại đơn kiện số 01 ngày 31/3/2014 (BL 31) thì đơn khởi kiện này đã được trả lại cho người khởi kiện do không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy, Bản án nhận định về thời hiệu khởi kiện theo đơn khởi kiện đã bị trả lại là không đúng.

(vii) Tại biên bản phiên tòa sơ thẩm thể hiện, người khởi kiện vẫn yêu cầu buộc khôi phục nguyên trạng các thửa đất nông nghiệp 1671, 1378 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có vị trí liền kề cùng với thửa 1671, 1378 ở gò Đồng Trong; không có yêu cầu rút nhưng tại trang 4 bản án sơ thẩm có ghi Đối với yêu cầukhôi phục nguyên hiện trạng đối với thửa đất số 1671, 1378 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có vị trí ở khu gò Đồng Tròn thôn Đ ông H, bà Q xin rút yêu cầu vì đã làm đơn khởi kiện nội dung này trong vụ án khác là không đúng diễn biến tại phiên tòa.

(viii) Thiếu nhận định đối với yêu cầu khởi kiện buộc các đối tượng có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án không thụ lý, giải quyết yêu cầu này.

(ix) Phần quyết định của bản án ghi thiếu thửa 1671, 1378; thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và 1378 ở gò đồng Tròn và thửa số 186 được giao theo Quyết định số 110 trong yêu cầu đòi khôi phục nguyên trạng các thửa đất nông nghiệp; thiếu đối với thửa đất nông nghiệp số 1703 và 1704 thuộc xứ đồng Dộc Ống Bò trong yêu cầu đòi công nhận các thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông H, bà Q.

(x) Trong vụ án có 02 người kháng cáo là ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị Q nhưng Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho 02 người kháng cáo nộp chung 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm là không đúng quy định tại Điều 209, Điều 347 Luật tố tụng hành chính.

(xi) Khoản 2 Điều 35 Luật tố tụng hành chính quy định: Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án hành chính khác nhau để giải quyết trong trường hợp quyết định hành chính bị khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của những người khởi kiện đó không liên quan với nhau. Trong vụ án, người khởi kiện là vợ chồng ông H bà Q khởi kiện nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND xã H, UBND huyện S và người có thẩm quyền trong 2 cơ quan này mà các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của ông H, bà Q lại có liên quan đến nhau nên việc Tòa án nhân dân huyện S tách yêu cầu khởi kiện đối với Chủ tịch và UBND huyện S, Chủ tịch và UBND xã H thành 02 vụ án riêng biệt là không đúng quy định của pháp luật về tách vụ án.

Mặt khác, việc tách vụ án chỉ được thực hiện sau khi vụ án đã được thụ lý, chứ không phải tách từ khi xử lý đơn khởi kiện.

(xii) Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ đã quyết định bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là chưa đủ căn cứ; cần phải thu thập chứng cứ mới quan trọng mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được tại phiên tòa, cụ thể:

- Chưa tiến hành giám định bản chính Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H mà ông H đang lưu giữ có bị sửa chữa, thêm bớt chữ, số và ký tự hay không? Nếu có thì diện tích ban đầu trước khi có sự sửa chữa là bao nhiêu?

- Chưa có kết quả xử lý của Công an huyện S đối với Văn bản số 1424/UBND-TTr ngày 18/9/2013 của UBND huyện S về việc chuyển vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra (các BL 169, 258, 274).

- Chưa làm rõ diện tích 17,2m2 đất ở ông H bị thu hồi tại Quyết định 3571/2007 đã được xác định lại loại đất theo Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S chưa.

- Chưa làm rõ sự quản lý của UBND xã H đối với 1.257,36m2 đất công trên hồ sơ địa chính và thực tế (thể hiện tại Quyết định số 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của UBND huyện S).

- Chưa làm rõ thửa đất mà ông H được thanh lý theo Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H thuộc thửa đất và tờ bản đồ nào trong hồ sơ địa chính của UBND xã H khi mà có nhiều tài liệu có thông tin khác nhau như:

+ Tại Văn bản 2047/UBND ngày 19/12/2016 của UBND huyện S (BL 321) là thửa số 1701 (không rõ số tờ bản đồ năm nào) có diện tích 400m2 nhưng bị thu hồi 17,2m2 để làm đường còn lại 382,8m2;

+ Kết luận số 216/KL-TTr ngày 29/8/2013 của Thanh tra huyện S (BL 178, 253) cũng là thửa 1701 nhưng diện tích là 542m2, bán thanh lý cho ông H 400m2, còn lại 142m2 là đất công.

+ Theo Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 của UBND huyện S thì diện tích 17,2m2 bị thu hồi thuộc thửa đất ở số 186 tờ bản đồ 06 (không phải là thửa 1701 như các văn bản trên).

+ Văn bản 303/CV-UBND ngày 11/10/2017 của UBND xã H (BL 374) lại xác định chủ sử dụng thửa đất ở số 186 tờ bản đồ 06 diện tích 314m2 đo đạc năm 1996 là ông Đặng Đức T (không phải là ông Đặng Đình H như Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 và diện tích cũng không phải như các văn bản trên).

- Chưa thu thập Quyết định 39/QĐ-UBND ngày 22/4/2013 của Chủ tịch UBND xã H giải quyết đơn khiếu nại (lần đầu)

- Bút lục 220 và 221 thiếu trang đầu tiên nên không biết là tài liệu gì. Bút lục 222 là giấy trắng.

Bài viết liên quan

Góp ý