Nội dung hủy án:
(i) Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo của bà Võ Thị Ph, Võ Thị Ngọc Ng, Võ Thúy V và Võ Thị Thanh Gi:
…
Xét, tại biên bản lấy lời khai ngày 08/3/2022 ông Nguyễn Văn Tân (Tăng) trình bày vào năm 1977, ông có mua của bà Trần Thị R phần diện tích đất khoản 10.000m2, tại ấp Hóc Thơm, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Như vậy, việc chuyển nhượng đất giửa bà R và ông Tân được thực hiện trước thời điểm bà Rất và ông Huệ ly thân nhau (năm 1985), tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chưa cho đối chất, điều tra, xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ thời gian chuyển nhượng như thế nào, phần đất diện tích 10.000m2 trên là tài sản riêng của bà Rất hay vẫn còn là tài sản chung giữa bà Rất và ông Huệ.
Xét, tại bản tự khai của ông H trình bày ngoài hai thửa đất mà bà R chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Tân và bà Nguyễn Thị Bé thì bà R còn quản lý một cái nhà thiếc nằm trên miếng đất mặt tiền rộng 29m giáp đường đất, tại khu vực 5, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi ly thân, bà R quản lý sử dụng diện tích đất này và vào năm 1990 bà Rất đã bán cho ông Võ Văn M với giá một cây vàng 24k. Nội dung này Tòa án cấp sơ thẩm chưa cũng lấy lời khai, điều tra xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tài sản này có có sự việc này hay không, tài sản này có phải là tài sản chung giửa ông H và bà R hay là tài sản riêng của bà R.
Xét, tại bản tự khai của ông H trình bày khi cho đất cho các con, năm 2012 ông và bà R đã ký tên vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho Võ Văn Ph, nhưng đến năm 2013 khi làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho Võ Văn M và Võ Văn L, bà R đã ủy quyền cho ông ký tặng cho hai con trai còn lại. Giấy ủy quyền này được UBND thị trấn Hiệp Hòa chứng nhận và ông đã nộp vào hồ sơ xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án cấp sơ thẩm chưa điều tra, xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ có giấy ủy quyền nay hay không.
(ii). Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp cho Hội đồng xét xử hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 18/7/2014 được công chứng tại Văn phòng công chứng Đức Huệ công chứng cùng ngày thể hiện vợ chồng ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị X tặng cho bà Võ Thúy V thửa đất số 136 (mpt) diện tích 3671m2, tờ bản đồ số 15, tọa lạc khu vực 3, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Theo như lời trình bày của nguyên đơn đây là tài sản mà ông L, ông Ph, ông Mg cùng ông H thống nhất chia cho các con gái là V, Ph, Gi, Nguyệt nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập tài liệu chứng cứ làm rõ lý do tại sao có hợp đồng tặng cho nêu trên và sự thỏa thuận giửa các bên về thửa đất trên là gì.
(iii). Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Võ Ngọc Ng có yêu cầu giám định chữ ký tên “Rất” và chữ viết mang tên “Trần Thị Rất” trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Võ Văn H, bà Trần Thị R với ông Võ Văn Ph. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại sử dụng tài liệu so sánh là chữ ký và chữ viết của bà R trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị R với Võ Thị Ngọc Ng mà hợp đồng này hiện ông H đang có tranh chấp yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Do đó, việc sử dụng tài liệu so sánh này là không khách quan.
(iv). Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của ông Võ Văn H, ông Nguyễn Văn Tân và bà Nguyễn Thị Bé trình bày bà Trần Thị R có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Tâm 10.000m2 và chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Bé 5.000m2 đất cùng tọa lạc tại ấp Hóc Thơm, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để cho rằng khi ly thân thì ông H và bà R đã thỏa thuận phân chia tài sản chung xong để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ để làm rõ những nội dung như đã phân tích trên là vi phạm thủ tục tố tụng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm.
(v). Ngoài ra, tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị Ngọc Ng trình bày trên thửa đất số 39, tờ bản đồ 10-3-4, tọa lạc tại khu vực 5, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vợ chồng bà có xây cất một căn nhà cùng hai người con nữa đang sinh sống là Châu Thuận Ph, sinh năm 1996 và Châu Xuân Qu, sinh ngày 20/01/2004. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành lấy lời khai và đưa Châu Xuân Qu vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm thủ tục tố tụng.
Với các lý do trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xác minh làm rõ các vấn đề trên để vụ án được giải quyết được toàn diện, khách quan và đúng pháp luật. Quan điểm phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp nên chấp nhận.
