Nội dung sửa án:
(i). Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 75 của Chính phủ hướng dẫn về công chứng chứng thực năm 2005 như sau: Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này. Khoản 1 Điều 11 của Nghị định 75 cũng quy định: Việc ký, điểm chỉ của người yêu cầu công chứng, chứng thực phải được thực hiện trước mặt người thực hiện công chứng, chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối chiếu với các quy định trên, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Th, cụ A cho ông T, bà L không tuân thủ quy định của Chính phủ về trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực.
Mặt khác, khi cụ Th và cụ A còn sống, cụ Th đã có đơn khiếu nại ngày 19/12/2012 gửi Ủy ban nhân dân xã An Vĩnh Ng cho rằng cụ bị ông T giả mạo chữ ký trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (BL 17, 18). Tại biên bản hòa giải ngày 17/01/2013, cụ Th kiên quyết đòi lại đất, ông T không phản đối việc cụ Th cho rằng ông giả mạo chữ ký và đồng ý trả đất (BL 14, 15). Tình tiết này chứng minh lời trình bày của cụ Th là có căn cứ, đồng thời phù hợp trình bày của ông V, ông T và ông Ph là không trực tiếp chứng kiến việc hai cụ ký tên và lăn tay vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Cụ Thu và cụ A không phải là người ký tên và lăn tay, trường hợp đúng là dấu tích của hai cụ thì hai cụ cũng không được giải thích trước khi ký tên hoặc lăn tay.
Từ đó cho thấy khi yêu cầu công chứng, chứng thực Ủy ban nhân dân xã An Vĩnh Ng đã không làm hết trách nhiệm trong việc công chứng, chứng thực hợp đồng, không yêu cầu người yêu cầu công chứng, chứng thực phải bảo đảm sự trung thực của mình trong việc yêu cầu chứng thực. Không thông qua nội dung cho bên tặng cho biết trước khi ký vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định chính phủ về công chứng và Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
Cho nên phía bà L và Luật sư bảo vệ khẳng định đảm bảo về trình tự, thủ tục của hợp đồng và yêu cầu được giữ nguyên là không thể chấp nhận. Cần chấp nhận kháng cáo của phía nguyên đơn, yêu cầu vô hiệu việc chứng thực, vô hiệu hai hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Th, cụ A và ông T, bà L. Án sơ thẩm không thu thập chứng cứ để làm rõ lại bác một phần yêu cầu của nguyên đơn là chưa xem xét hết tình tiết của vụ án.
(ii). Đối với kháng cáo về án phí. Bà L sinh năm 1955 thuộc trường hợp người cao tuổi. Bà Lệ có đơn xin nên cần áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí cho bà L. Án sơ thẩm không xem xét là thiếu sót nên chấp nhận kháng cáo của bà L và đề nghị này của Luật sư.
