MỤC LỤC
1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2020/KDTM-PT ngày 04/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Nội dung hủy án:
(i) Xét kháng cáo của bị đơn Công ty D, thì thấy: Công ty TNHH H khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH D phải trả lại tiền hoàn thuế GTGT 5% theo giá trị các hợp đồng mà các bên đã ký kết trong quá trình giao dịch mua bán hàng hóa. Tòa án thành phố Buôn Ma Thuột đã thụ lý giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện cùa nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả tiền hoàn thuế mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán là không đúng quy định của pháp luật. Bởi lẽ: Theo các Hợp đồng mua bán giữa Công ty TNHH H và công ty TNHH D Vệt Nam, tại điểm 4.2 Điều 4 quy định: “... Tiền thuế GTGT sẽ được thanh toán sau khi bên A (Cty Đăk Man) nhận được tiền hoàn thuế và muộn nhất vào ngày cuối cùng của tháng kế tiếp so với ngày tháng bên B (Cty H) xuất hóa đơn cho bên A”.
Tuy nhiên, cho đến nay Cục thuế tỉnh Đăk Lăk vẫn chưa hoàn thuế cho Công ty D theo quy định. Tại công văn 157/TB-CT của Cục thuế Đăk Lăk đã trả lời việc chưa hoàn thuế cho Công ty TNHH D là vì lý do: Công ty TNHH H đang bị Cơ quan công an điều tra về hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT khống của các Doanh nghiệp khác, vụ việc đang được điều tra, làm rõ và Cục thuế Đăk Lăk chưa nhận được kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, nên chưa có căn cứ để giải quyết số tiền thuế cho Công ty D.
Như vậy, căn cứ vào Mục 4.2 Điều 4 của hợp đồng mua bán giữa Bên A (Cty TNHH D) với Bên B (Cty TNHH H) và căn cứ Công văn 157/TB-CT của Cục thuế Đăk Lăk thì việc Công ty D chưa trả khoản tiền hoàn thuế cho Công ty TNHH H, là vì Cục Thuế Đăk Lăk chưa thực hiện hoàn thuế cho Công ty D theo quy định. Vì vậy, trong trường hợp này cần xác định là đương sự chưa đủ điều kiện để khởi kiện. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217 để đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn kiện mới đúng quy định của pháp luật.
(ii) Ngoài ra, Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện viện kiểm sát thành phố Buôn Ma Thuột phát biểu quan điểm và cho rằng thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 309 Luật thương mại năm 2005 để đình chỉ vụ án, trả lại đơn khởi kiện là không đúng, làm ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Bởi lẽ, đối tượng khởi kiện trong vụ án này là “số tiền hoàn thuế” đang bị phụ thuộc bởi bên thứ ba là Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, chứ không phải lỗi của một trong các bên đương sự. Vì vậy, nếu áp dụng thời hiệu là 02 năm để đình chỉ thì sẽ làm mất quyền khởi kiện của các đương sự, khi họ có đủ điều kiện khởi kiện lại vụ án.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH D. Áp dụng 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217; Điều 308 và Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự. Hủy Bản án KDTM sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án do Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn H chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Căn cứ khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, khi có đủ điều kiện khởi kiện, Công ty trách nhiệm hữu hạn H có thể khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 989/2018/KDTM-PT ngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc đòi tài sản, yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nội dung hủy án:
(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên xác định đồng ý chọn Tòa án Việt Nam giải quyết tranh chấp và áp dụng pháp luật Việt Nam.
Khi ký Hợp đồng số 10/P/03408/A ngày 09-9-2010 các bên thỏa thuận tại Điều 7 về “chuyển giao quyền sở hữu” được coi là các bên sẽ không áp dụng qui định tại Điều 19 (e) Hợp đồng Cà phê Châu Âu
Điều 7 các bên thỏa thuận quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua theo điều kiện FOB (giao lên tàu): Điều kiện này chỉ qui định người mua phải chịu tất cả chi phí và rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hóa kể từ sau khi hàng hóa đã giao qua lan can tàu tại cảng bốc hàng qui định, điều kiện này không qui định về chuyển giao quyền sở hữu.
Điều 7 các bên cũng thỏa thuận người bán có nghĩa vụ đối với hàng hóa cho đến khi giao vào kho do người mua chỉ định, bên mua là bên duy nhất gánh chịu mọi rủi ro đối với hàng trong kho, nội dung thỏa thuận này cũng không rõ ràng về chuyển giao quyền sở hữu.
Do các bên thỏa thuận không rõ ràng về chuyển giao quyền sở hữu nên áp dụng Điều 62 Luật thương mại xác định: Thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ bên bán (Công ty TPMB) sang bên mua (Công ty O) kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển vào kho của bên mua. Như vậy, từ khi cà phê được lưu giữ tại kho do bên mua chỉ định thì đã thuộc quyền sở hữu của Công ty O và Công ty O có nghĩa vụ phải thanh toán giá trị hàng hóa đã thỏa thuận cho bên bán. Tuy nhiên, do nguyên đơn gửi đơn kiện quá thời hạn qui định về thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nên thời hiệu khởi kiện đã hết.
(ii) Về yêu cầu phản tố của bị đơn:
Theo quy định tại Điều 319 Luật Thương Mại 2005 thì thời hiệu khởi kiện tranh chấp thương mại là 02 năm tính từ khi bị đơn biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Theo bị đơn trình bày thì từ ngày 13-4-2011 đến ngày 16- 5-2011, Công ty O đã mua hàng từ các nhà nhập khẩu khác với số lượng 403,2 tấn cà phê để bù vào số lượng hàng mà Công tyF đã không giao theo 4 hợp đồng còn lại. Như vậy, thời gian này được tính là thời điểm quyền lợi của Công ty O bị vi phạm, nhưng Đơn phản tố của Công ty O đề ngày 21-01-2016 và đến ngày 14-11-2016 mới đóng tạm ứng án phí là quá thời hiệu phản tố theo qui định.
Vì vậy, Tòa án sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ.
Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm: Hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án.
3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 06/2022/KDTM-PT ngày 08/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng mua bán và gửi giữ hàng hóa.
Nội dung hủy án:
Căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 74 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Công ty P sẽ là đơn vị tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của Công ty M tham gia tố tụng trong vụ án.
Mặc dù có sự thay đổi về người khởi kiện nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Công ty P thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, gây khó khăn cho công tác thi hành án bản án sau này.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 06/2024/KDTM-PT ngày 15/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung hủy án:
(i) Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn làm trong thời hạn luật định, hình thức và nội dung phù hợp các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được triệu tập lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án. Căn cứ Điều 299 BLTTDS năm 2015, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn rút phần yêu cầu phản tố đề nghị buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc góp vốn vào Công ty KV với số tiền là 1.263.000.000đ, đề nghị cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phần này. Phía nguyên đơn đồng ý việc rút yêu cầu cầu này của bị đơn. Xét thấy phần tranh chấp này giữa các bên là tranh chấp giữa Công ty với thành viên của Công ty theo quy định tại khoản 4 Điều 30 và Điều 37 BLTTDS. Tuy nhiên, xét việc rút yêu cầu của phản tố của bị đơn là tự nguyện, được nguyên đơn chấp nhận. HĐXX căn cứ quy định tại Điều 299 BLTTDS hủy 1 phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu này của bị đơn.
(ii) Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án phía Công ty HP cho rằng Công ty KV không giao hạt điều đã gây thiệt hại cho nguyên đơn, còn phía bị đơn cho rằng nguyên đơn không nhận hạt điều do giá cả trên thị trường xuống thấp và yêu cầu nguyên đơn phải lên giải quyết những vấn đề liên quan đến việc góp vốn mới đồng ý giao số hạt điều trên. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh được các vấn đề cần thiết như: Sau khi nhận tiền, Công ty KV đã mua được số hạt điều cho Công ty HP hay không (số hạt điều có trong kho tại thời điểm xem xét chưa thể khẳng định mua từ tháng 5/2020), nếu Công ty KV thu mua được số hạt điều này thì có việc thông báo cho bên Công ty HP nhận hàng không; căn cứ chứng minh bên Công ty HP được thông báo mà không nhận số hạt điều này là do giá cả thị trường xuống thấp như lời trình bày của phía bị đơn. Các căn cứ chứng minh thiệt hại do Công ty KV phải bỏ ra 498.626.000đ để bảo quản số hạt điều như bị đơn yêu cầu cũng chưa được làm rõ. Sau khi làm rõ các nội dung trên, trường hợp các bên đều có lỗi thì cần thiết phải tiến hành xác định giá trị còn lại của số hạt điều trên làm cơ sở giải quyết bồi thường thiệt. Những vấn đề trên, chưa được cấp sơ thẩm làm rõ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được. Cần chấp nhận một phần kháng cáo của các bên đương sự và đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, hủy 01 phần bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
5. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 11/2023/KDTM-PT ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa (thanh toán tiền mua, bán tôm nguyên liệu).
Nội dung sửa án:
(i) Đối với nội dung kháng nghị cho rằng việc thế chấp sáu (06) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Công ty PT đứng tên không có giá trị pháp lý nên Công ty Thủy sản S phải có trách nhiệm trả lại cho ông Lê Quốc Tr, bà Lê Thị Bích L, bà Trần Thị Thu H và bà Nguyễn Thị P không phụ thuộc vào việc các bị đơn này thực hiện nghĩa vụ trả số tiền 2.901.085.800 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy như đã nhận định tại các mục [5.1], [5.2], [5.3] và việc thế chấp không có công chứng, chứng thực và đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật nên không có hiệu lực. Nhưng Công ty Thủy sản S giữ các giấy chứng nhận này trên cơ sở Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản ngày 13-02-2015 và quá trình giải quyết vụ án, ông Tr, bà L, bà H và bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề nào liên quan Biên bản giao nhận này nên án sơ thẩm buộc Công ty Thủy sản S giao trả sáu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi ông Tr, bà L, bà H, bà P thanh toán xong số tiền 2.901.085.800 đồng là có căn cứ. Do đó, phần yêu cầu kháng nghị này không được chấp nhận.
Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn và một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng và sửa một phần bản án sơ thẩm đã nhận định.
(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng cho rằng cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự để hủy bản án và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Hội đồng xét xử nhận thấy tuy cấp sơ thẩm không đưa ông Huỳnh Th vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, nhưng sau khi xét xử, bốn thành viên của Công ty PT là ông Lê Quốc Tr, bà Lê Thị Bích L, bà Trần Thị Thu H và bà Nguyễn Thị P đều không có kháng cáo việc án sơ thẩm buộc các đương sự này thanh toán số tiền 2.901.085.800 đồng cho Công ty Thủy sản S nên không cần thiết phải hủy để giải quyết lại vụ án.
6. Bản án kinh doanh thương mại số 03/2019/KDTM-PT ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về tranh chấp thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung sửa án:
Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng cho rằng đây là vụ án dân sự nên lãi suất chậm thi hành án phải áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự là chưa chính xác. Trong vụ án này, bà T không yêu cầu Công ty N phải trả lãi chậm thanh toán nhưng để đảm bảo quyền của người được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì người thi hành án phải trả tiền lãi với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện T về phần lãi suất chậm thi hành án cần phải áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.
Từ nhận định trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng và không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH MTV Đóng tàu N, sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2018/KDTM-ST ngày 11 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng về phần lãi suất chậm thi hành án.
7. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 08/2019/KDTM-PT ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và bồi thường thiệt hại hợp đồng.
Nội dung sửa án:
Về xác định thiệt hại của hợp đồng: Nguyên đơn chứng minh bằng hợp đồng mua cá ngày 15/9/2017 của bà Dương Thị Kim L (Bút lục 38-45) và hợp đồng mua bán với Trang trại Đ-Th(Bà nguyễn Thị Thu PH làm chủ) vào ngày 15/8/2017 (Bút lục 14-21) để làm cơ sở xác định thiệt hại, Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào 02 hợp đồng này cùng biên nhận giao nhận cá, giao nhận tiền để xác định mức độ thiệt hại là 2.900.090.000 đồng và buộc bị đơn pH bồi thường toàn bộ số tiền này. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn pH bồi thường như trên là không thỏa đáng. Bởi lẽ, xét hợp đồng kinh tế số số 01/HĐMB-2017 ngày 01/01/2017 giữa bà Cao Phương Ng – Chủ đại lý thức ăn thủy sản Phước Lộc (Bên B) và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph (Bên A) do ông Ưng Văn H làm đại diện; Hợp đồng mua bán ngày 15/9/2017 giữa bà Cao Phương Ng với bà Dương Thị Kim L; Hợp đồng mua bán ngày 15/8/2017 giữa Trang trại Đ- Th(Do Bà PH làm đại diện) với bà Cao Phương Ng thì có những điểm bất hợp lý về số tiền thiệt hại 2.900.090.000 đồng như sau:
- Đối với hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa bà Ng và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph thì thỏa thuận bán 700 tấn cá/năm mà không qui định rõ về thời gian bắt cá cụ thể như vào tháng nào hoặc mỗi tháng pH giao bao nhiêu, nên không có cơ sở buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph pH có trách nhiệm giao cá cho bà Ng vào tháng 8 và tháng 9 năm 2017 để bà Ng giao lại cho Trang trại Đức Thành. Đồng thời hợp đồng mua bán cá giữa bà Ng và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph cũng không ràng buộc điều khoản nào đối với bên thứ 3 khi thực hiện hợp đồng và khi phát sinh thiệt hại.
- Đối với Hợp đồng mua bán ngày 15/8/2017 giữa Trang trại Đ-Th(Do Bà PH làm đại diện) với bà Cao Phương Ng: Hợp đồng xác lập ngày 15/8/2017 với thỏa thuận giao cá trong tháng 8 và tháng 9 năm 2017 với số lượng cá giống là 150.000Kg. Theo nội dung hợp đồng này đối chiếu với nội dung hợp đồng với Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph ký với bà Ng thì cũng không có cơ sở để xác định Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph pH có trách nhiệm giao lượng cá nêu trên cho bà Ng để bà Ng đảm bảo hợp đồng với Trang trại Đức Thành.
- Đối với Hợp đồng mua bán ngày 15/9/2017 giữa bà Cao Phương Ng với bà Dương Thị Kim L: Hợp đồng lập ngày 15/9/2017, số lượng 150 tấn. Nội dung của hợp đồng không có qui định thời gian giao hàng cụ thể như thế nào. Nên cũng chưa đủ cơ sở để xác định bà Ng có mua cá của bà L và giao lại cho Trang trại Đ- Thhay không, thời gian mua cá cụ thể như thế nào cũng không thể hiện trong hợp đồng.
Để làm rõ các bất cập nêu trên, theo yêu cầu của các bên đương sự tại phiên tòa Phc thẩm. Tòa án cấp Phc thẩm đã tiến hành thẩm tra xác minh, thu thập thêm chứng cứ như sau:
- Công an xã Thạnh Hòa, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang cung cấp: “1. Vào ngày 25/8/2017 bà Cao Phương Ng có mang đơn yêu cầu can thiệp đến Công an xã Thạnh Hòa nhờ can thiệp giữa bà và ông H có tranh chấp hợp đồng kinh tế... Công an xã Thạnh Hòa nhận thấy vụ việc trên không thuộc thẩm quyền của Công an xã giải quyết nên hướng dẫn Bà chuyển hồ sơ lên cấp trên xem xét, giải quyết theo thẩm quyền. 2. Vụ việc tranh chấp bản thân bà Ng đến Công an xã trình báo. Thời điểm đó, đồng chí Phạm Hoàng Sang – Trưởng công an xã và 02 đồng chí Công an viên đến tại trụ sở Công ty TNHH nuôi trồng thủy sản Ph để xem xét giải quyết. Khi Công an xã đến thì hai bên tự giải tán nên Công an xã không lập biên bản, bởi vì không có L quan đến an ninh trật tự. Tại Công ty TNHH nuôi trồng thủy sản Ph, chúng tôi có trao đổi với ông H – Giám đốc công ty về việc đảm bảo an ninh trật tự, mọi việc pH chờ Cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngoài những vấn đề trên chúng tôi không ghi nhận gì thêm”.
- Đối với bà Dương Thị Kim L, sinh năm 1978 – Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Qua xác minh thì được ông Phạm Quốc Vũ – Trưởng Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp cung cấp “Tại khu vực Khóm 4, thị trấn Mỹ An có vùng nuôi cá tra nhưng tôi không biết bà Dương Thị Kim L, sinh năm 1978 này là ai, làm nghề nghiệp gì”.
Vấn đề này phù hợp với kết quả xác minh của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang ngày 17/6/2019.
- Đối với Trang trại Đ-Th(Bà Nguyễn Thị Thu PH làm chủ): Tòa án Phc thẩm cũng tiến hành xác minh tại địa phương nơi bà PH cư trú nhưng bà PH trả lời với chính quyền địa phương là từ chối cung cấp thông tin xác minh cho Tòa án Phc thẩm. Vào lúc 11 giờ 57 Pht, ngày 17/6/2019, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đến tại trụ sở Công an phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ để ghi lời khai bà Nguyễn Thị Thu PH, được bà PH cung cấp thông tin như sau: “...Ngoài việc mua cá của bà Ng còn mua cá của nhiều người khác nữa, vì mua số lượng lớn để nuôi; Nếu bà Ng cung cấp không đủ số lượng cá theo hợp đồng đã ký thì đi mua chỗ khác chứ không yêu cầu bà Ng bồi thường; Thực tế thì chị Ng giao cá cho tôi thì tôi trả tiền theo giá dao động trên thị trường chứ không căn cứ theo giá trong hợp đồng mua bán. Nếu giá thị trường tăng thì tôi và chị Ng thỏa thuận tăng lên; Tôi và chị Ng mua bán cá với nhau mặc dù có ký hợp đồng mua bán, nhưng lúc nào chị Ng giao cá đúng với giá trong hợp đồng thì tôi nhận và trả tiền, sau đó chị Ng giao cá tiếp số lượng còn lại theo hợp đồng mà giá thị trường có tăng hay giảm thì tôi và chị Ng đều có thỏa thuận tăng hoặc giảm theo chứ không pH là toàn bộ số lượng cá trong hợp đồng đều giao nhận với giá đã ghi trong hợp đồng”.
Qua kết quả xem xét chứng cứ mà Tòa sơ thẩm thu thập có trong hồ sơ và kết quả thu thập thêm chứng cứ của Tòa án cấp Phc thẩm và của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Hội đồng xét xử Phc thẩm thấy rằng, việc bà Ng chứng minh bị thiệt hại số tiền 2.900.090.000 đồng là không có cở sở xác thực. Bởi lẽ, qua thu thập và xác minh của Tòa án Phc thẩm và của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang thì không xác định được bà L ở Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp có vùng nuôi cá cũng như bán cá cho bà Ng vào thời điểm tháng 9 năm 2017. Đối với bà Nguyễn Thị Thu PH thì từ chối cung cấp thông tin cho Tòa án Phc thẩm, nhưng bà PH có cung cấp thông tin cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Qua đối chiếu lời trình bày của Bà PH do Tòa án sơ thẩm thu thập, giấy xác nhận của bà PH có trong hồ sơ và lời trình bày của bà PH vào ngày 17/6/2019 là có nhiều mâu thuẫn. Cụ thể bà PH xác nhận mua cá của bà Ng như sau: Ngày 18/9/2017, số lượng cá 62.250Kg, giá 29.000 đồng/Kg, mẫu 40 con/Kg, thành tiền 1.805.250.000 đồng; Ngày 25/9/2017, số lượng cá 28.850Kg, giá 27.000 đồng/Kg, mẫu 35 con/Kg, thành tiền 778.950.000 đồng; Ngày 30/9/2017, số lượng cá 58.260Kg, giá 26.000 đồng/Kg, mẫu 30 con/Kg, thành tiền 1.514.760.000 đồng (Bút lục số 266, 267). Đối chiếu với lời trình bày của bà PH vào ngày 17/6/2019 là không phù hợp. Bởi lẽ, bà PH cho rằng mặc dù có làm hợp đồng mua bán với bà Ng nhưng khi giao nhận cá đều tính theo giá dao động trên thị trường, không tính theo giá hợp đồng. Do lời trình bày của bà PH trước và sau không thống nhất, nên lời trình bày của bà PH không có cơ sở xác thực. Mặt khác, tại thời điểm tháng 9/2017 thì giá cá thực tế trên thị trường do bà Ng và phía bị đơn cùng xác nhận từ 40.000 đồng/Kg đến 50.000 đồng/Kg (Tùy theo size cá), nên không có lý do gì bà Ng mua của bà L giá từ 45.000 đồng/Kg đến 49.000 đồng/Kg lại bán cho bà PH giá từ 26.000 đồng/Kg đến 29.000đồng/Kg, vấn đề này phù hợp với giải trình của bị đơn tại phiên tòa cho rằng bà Ng không có mua bán thực tế với bà L, bà PH và không có thiệt hại thực tế xảy ra. Do các chứng cứ bà Ng chứng minh thiệt hại là không phù hợp, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về vấn đề bồi thường thiệt hại.
Từ những căn cứ nhận định như trên, xét kháng cáo của bị đơn về việc không đồng ý bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn pH bồi thường số tiền 2.900.090.000 đồng.
8. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 14/2019/KDTM ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân Đăk Lăk về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung sửa án:
Xét yêu cầu phản tố và kháng cáo của bị đơn cho rằng các bên thỏa thuận Công ty N chốt bán cà phê cho ông T – Chủ Doanh nghiệp P theo hình thức Công ty N nhận tiền của ông T trước giao hàng sau. Cho đến nay Công ty N còn nợ ông T - Chủ Doanh nghiệp P và yêu cầu phải trả tổng 1.723.071 kg cà phê nhân xô và 425.000.000 đồng tiền thỏa thuận Công ty N trích hoa hồng mỗi xe tải chở hàng (5.000.000 đồng/1xe x 85 xe) cho Doanh nghiệp P là không có căn cứ. Bởi lẽ, bị đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho lời khai nại của mình, không được nguyên đơn thừa nhận, không phù hợp khoản 4 của 23 hợp đồng mà các bên đã ký kết. Tại Điều 3 của 23 hợp đồng thể hiện cụ thể địa điểm, thời điểm giao hàng chậm nhất từ ngày 31/12/2016 đến 30/5/2017”. Tại khoản 4 của 23 hợp đồng thể hiện “ Bên bán thanh toán cho bên mua bằng chuyển khoản sau khi bên bán giao xong hàng. Bên bán xuất hóa đơn giá trị gia tăng ngay sau khi xuất hàng” (từ BL 19-71). Hơn nữa, tại bản đối chiếu công nợ số 01/2018 ngày 02/5/2018 của chính Doanh nghiệp P không hề có xác nhận Công ty N còn nợ 1.723.071 kg cà phê nhân xô. Như vậy, đủ cơ sở xác định Công ty N đã giao hàng, Doanh nghiệp P đã nhận hàng thì mới thanh toán cho Công ty N số tiền 78.383.484.000 đồng và còn nợ lại số tiền 1.057.378.497 đồng. Ngoài ra theo lẻ thường không ai liên tục nhiều lần, trong thời gian dài lại thực hiện việc giao tiền với số lượng rất lớn trong khi người bán không hề giao hàng. Ngoài ra, Doanh nghiệp P lại mâu thuẫn với chính lời khai của mình khi cho rằng Công ty N chưa giao hàng nhưng lại cho rằng Công ty N nợ huê hồng (5.000.000đ/1xe hàng x 85 xe). Do đó, bản án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Quá trình giải quyết sơ thẩm, ông Vũ Văn T tự nguyện rút một phần yêu cầu phản tố nên Tòa án đã đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố của bị đơn ông Vũ Văn T – Chủ doanh nghiệp P, cụ thể đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố: Buộc Công ty N trả cho Doanh nghiệp P 419.643.000 đồng tiền nhờ mua 59.949 kg cà phê trấu; 261.800.000 đồng tiền nhờ mua 5.500 kg cà phê nhân xô; 23.625.300 đồng tiền mua bán thanh toán còn thiếu và 31.144.866 đồng tiền lãi tạm ứng khi gửi kho do nhận cà phê trấu chậm và tuyên hậu quả pháp lý về quyền được khởi kiện lại đối với các yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 tuyên nghĩa vụ chịu lãi suất trong trường hợp bị đơn chậm thi hành án là không đúng, cần phải nhận định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, được hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019 ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, lãi phạt, phạt vi phạm.
Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm về Điều luật áp dụng và tuyên trách nhiệm chậm thi hành án cho phù hợp.
9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 17/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kom Tum về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung sửa án:
(i) Xét kháng cáo về phần thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm luật sư của bị đơn cho rằng cấp sơ thẩm không đưa những người tiến hành lấy mẫu xét nghiệm tham gia tống với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Hợp đồng chứng thực của UBND xã không có mặt một trong các bên tham gia ký kết mà chưa được làm rõ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục.
(ii) Xác định không đúng quan hệ pháp luật: Tại đơn khởi kiện nguyên đơn cho rằng bị đơn vi phạm hợp đồng nên yêu cầu trả lại 260.000.000 đồng và phạt vi phạm hợp đồng 8% nên cấp sơ thẩm thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là đúng với bản chất vụ án. Tuy nhiên, Bản án lại xác định đơn phương chấm dứt hợp đồng là chưa phù hợp với nội dung vụ án và yêu cầu của đương sự. Vì vậy, kháng cáo của bị đơn về nội dung này có căn cứ, cần chấp nhận và sửa án sơ thẩm xác định lại quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
(iii) Cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm:
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định mặc dù các bên có thỏa thuận với nhau qua zalo, tuy nhiên không lập văn bản thể hiện hợp đồng số 11/HĐMB/KT dùng để thay thế cho hợp đồng số 10/HĐMB/KT nên xác định tồn tại cùng lúc 02 hợp đồng có giá trị pháp lý là không phù hợp với chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và Bản án nhận định có sự mâu thuẫn, vì vậy cần rút kinh nghiệm.
Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 đồng nhưng cấp sơ thẩm Thông báo nộp tạm ứng án phí là 300.000 đồng như tạm ứng án phí dân sự là không đúng.
Từ những căn cứ trên chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn. Sửa một phần Bản án sơ thẩm để xác định lại quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
10. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 18/2019/KDTM-PT ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Nội dung sửa án:
(i) Tại vụ án này bà D không thừa nhận là bà D đã nhận số lượng cà phê các lần giao cà phê trên của bà N, tại “Đơn khởi kiện” ngày 30/09/2005, tại mục “Hàng chốt bán” và tại mục “Hàng đã giao” tính từ trên xuống đến hàng thứ 18 bà D đã ghi vào đơn khởi kiện coi như đã công nhận vào các ngày nói trên bà N đã giao cà phê cho bà D. Quá trình giải quyết vụ án, bà D lại thay đổi yêu cầu chỉ yêu cầu giải quyết về việc mua bán cà phê với bà N từ năm 2003 đến năm 2005, nay bà D không thừa nhận đã nhận cà phê nhân xô của bà N vào các ngày trên là không có căn cứ. Do vậy, có căn cứ bà N đã giao cho bà D số lượng 777.482,4kg cà phê nhân xô - 747.664,25 kg cà phê nhân xô (số cà phê phải giao) thì còn lại bà N giao thừa cho bà D 29.818,15kg cà phê nhân xô. Trong tổng số lượng này bà D đã thay bà N giao trả cho bà Thư 5.000 kg cà phê nhân xô, còn lại 24.818,15kg cà phê nhân xô. Theo bản án số: 54/2012/KDTM-PT ngày 30/7/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng, thì bà D đã thi hành được 1.208kg cà phê nhân xô. Như vậy, tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm bà D còn nợ của bà N số lượng 23.610,15 kg cà phê nhân xô, nên bà D phải có trách nhiệm giao trả lại cho bà N.
Do đó, kháng cáo của bà D được chấp nhận một phần, sửa một phần bản án kinh doang thương mại sơ thẩm.
(ii) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên “Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải chịu thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015”. Căn cứ Điều 430; 431; 437 BLDS năm 2015, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên như vậy là không có căn cứ, trái với điều luật được qui định tại BLDS các năm 2005, năm 2015 cần rút kinh nghiệm.