Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tranh chấp hợp đồng liên quan đến điện năng lượng mặt trời

MỤC LỤC

1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2022/KDTM-PT ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình xây dựng

2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng tổng thầu

3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số …/2023/KDTM-PT ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện

4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 15/05/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

5. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2024/KDTM-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp  hợp đồng thi công

6. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2023/KDTM-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

7. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện

8. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 18/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2024/KDTM-PT ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc tranh chấp hợp đồng mua bán

10. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2023/KDTM-PT ngày 09/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

 

1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2022/KDTM-PT ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình xây dựng

Nội dung hủy án:

(i) Xét thấy, tại điều kiện thanh toán lần 5 (lần sau cùng) quy định tại mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng số 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì ngoài các hồ sơ, tài liệu, chứng từ công ty D đã cung cấp thi công ty D còn phải cung cấp cho công ty K bản vẽ hoàn công công trình và phải có Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng.

(ii) Đối với việc ký biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng: Căn cứ Hợp đồng 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì bên A (công ty K) giao cho bên B (công ty D) “thi công Công trình: Thiết kế và lắp Đặt Hệ Thống ĐiệnNăng Lượng Mặt Trời Hòa Lưới Trên Mái Nhà Xưởng tại Công Ty Cổ Phần Nông Nghiệp Công Nghệ Cao Y” với khối lượng công việc “Theo Bảng tổng hợp dự toán đã được hai bên thống nhất ký duyệt đính kèm”. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện công ty D và đại diện công ty K thừa nhận mặc dù hợp đồng có nội dung thi công với khối lượng công việc theo Bảng tổng hợp dự toán đã được hai bên phê duyệt nhưng thực tế không có bản tổng hợp dự toán. Do đó, không đủ cơ sở để xác định từng hạng mục thi công công trình. Về ý kiến của đại diện công ty K cho rằng công ty D không thi công phần máng xối của mái nhà hệ thống, không khắc phục phần sắt, thép bị hư hỏng, 01 thiết bị inverter bị hư hỏng không khắc phục mặc dù bị đơn đã nhiều lần có văn bản yêu cầu khắc phục nên không chấp nhận ký biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành thu thập chứng cứ để làm những vấn đề đại diện bị đơn trình bày mà nhận định rằng bị đơn công ty K chấp nhận nghiệm thu miệng là chưa đủ cơ sở vững chắc.

(iii) Về bản vẽ hoàn công: Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đại diện công ty D thừa nhận chưa hoàn thành bản vẽ hoàn công đúng, rõ như thực tế thi công công trình. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã tạm ngưng phiên tòa để hai bên phối hợp hoàn thành bản vẽ hoàn công nhưng hai bên vẫn không thống nhất phối hợp thực hiện. Xét thấy, theo tại điều kiện thanh toán lần 5 quy định tại mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng số 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì công ty D phải có nghĩa vụ hoàn thành bản vẽ hoàn công mới đủ điều kiện yêu cầu công ty K thanh toán. Hơn nữa, căn cứ Điều 124 của Luật Xây dựng năm 2014 tại khoản 3 quy định:“Khi bàn giao công trình xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng phải giao cho chủ đầu tư các tài liệu gồm bản vẽ hoàn công, quy trình hướng dẫn vận hành, quy trình bảo trì công trình, danh mục các thiết bị, phụ tùng, vật tư thay thế và các tài liệu cần thiết có liên quan”, theo đó trách nhiệm của công ty D phải lập và bàn giao bản vẽ hoàn công cho công ty K khi bàn giao công trình; và tại khoản 4 quy định “Trường hợp chưa bàn giao được công trình cho chủ quản lý sử dụng thì chủ đầu tư có trách nhiệm tạm thời quản lý, vận hành công trình xây dựng”. Như vậy, công ty D chưa hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng là lập và cung cấp bản vẽ hoàn công đúng, rõ như thực tế thi công cùng các giấy tờ có liên quan đến vận hành, khai thác công trình cho công ty K theo hợp đồng xây dựng đã ký kết và theo quy định của Luật Xây dựng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty D là chưa đủ cơ sở vững chắc.

(iv) Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình bày thống nhất do công ty D thuê đơn vị thiết kế và hồ sơ nghiệm thu công trình có sự tham gia của công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Xây dựng M là đơn vị thiết kế, đồng thời là đơn vị giám sát nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Xây dựng M vào tham gia tố tụng là thiếu sót. Ngoài ra, vị trí thi công công trình là mái nhà xưởng của công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Hậu Giang nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Y vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng tổng thầu

Nội dung hủy án 

Xét khiếu nại của bị đơn về việc tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên mức “nợ lãi chậm thanh toán” là 10%/năm nhưng trong bản án lại ghi là 15.13%/năm. Thấy rằng, tại biên bản nghị án ngày 11-8-2023 Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thống nhất buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn 585.796.920 đồng (Trong đó tiền nợ theo hợp đồng là 417.472.440 đồng, tiền nợ lãi chậm thanh toán là 168.324.480 đồng) nhưng khi tuyên án Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa chỉ buộc bị đơn phải trả 110.880.960 đồng tiền nợ lại chậm trả sai với biên bản nghị án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số …/2023/KDTM-PT ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện

Nội dung hủy án 

(i) Như vậy, người khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Điện lực Gia L phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán điện, nhưng Công ty Điện lực Gia L không phải là một trong các bên giao kết hợp đồng; Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án và xác định Công ty Điện lực Gia L là bị đơn, là không đúng quy định của pháp luật và không đúng với nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn (nguyên đơn không xác định Công ty Điện lực Gia L là người bị kiện). Lẽ ra, trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm phải yêu cầu 2 công ty phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện liên quan đến Công ty Điện lực Gia L cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về đại diện, thì mới đúng quy định tại Điều 186, Điều 189, Điều 191, Điều 193, Điều 195, Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Tòa án cấp sơ thẩm không những xác định không đúng tư cách tố tụng của Công ty Điện lực Gia L mà còn tuyên buộc Công ty Điện lực Gia L phải liên đới cùng Tổng Công ty Điện lực Miền T thanh toán cho Công ty Thanh D, Công ty Vạn P 11.742.518.427 đồng tiền bán điện từ ngày 11-3-2021 đến ngày 08-9- 2022 và lãi do chậm thanh toán theo mức lãi suất là 0,8%/tháng, tính từ ngày 11- 3-2021 đến 08-9-2022, là không đúng, bởi lẽ Công ty Điện lực Gia L không có nghĩa vụ gì liên quan đến hợp đồng mua bán điện của tổng công ty Điện lực Miền T với 2 công ty.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định như nêu trên là gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Điện lực Gia L và không đảm bảo cho việc tổ chức thi hành án.

(ii) Như đã nêu trên, Văn bản ủy quyền lại số 4354/UQ-EVNCPC ngày 21-5-2019, Tổng Công ty điện lực Miền T ủy quyền cho cá nhân chứ không phải ủy quyền cho tổ chức, nhân danh mình để thực hiện việc ký kết hợp đồng mua điện của 2 công ty nêu trên; như vậy, với việc ủy quyền cho cá nhân, thì các giao dịch mà Giám đốc Công ty Điện lực Gia L, Giám đốc điện lực Krông P thực hiện nhân danh Tổng công ty điện lực Miền T không thể là hoạt động của Công ty Điện lực Gia L hay của Điện lực Krông P. Do đó, tranh chấp hợp đồng mua bán điện theo đơn khởi kiện của Công ty Thanh D, Công ty Vạn P không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh Tổng công ty Điện lực Miền T, nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự đã viện dẫn nêu trên, nên Tòa án nhân dân thành phố P không có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án.

Các sự kiện và nhận định trên cho thấy, việc Tòa án nhân dân thành phố P thụ lý vụ án, ra bản án giải quyết tranh chấp trong trường hợp này, là không đúng thẩm quyền.

(iii) Các nhận định tại mục trên đây còn chứng tỏ ý kiến của phía nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm cho rằng Tòa án nhân dân thành phố P có thẩm quyền giải quyết vụ án do đây là tranh chấp phát sinh từ hoạt động của Công ty Điện lực Gia L là chi nhánh của Tổng công ty điện lực Miền T và quá trình thanh toán nguyên đơn đều xuất hóa đơn cho Công ty Điện lực Gia L, là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ các đánh giá, phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy do Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và những vi phạm này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nên cần phải hủy bản án sơ thẩm và do Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền, hơn nữa, cũng không xác định được thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, nên mặc dù hủy bản án sơ thẩm, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 15/05/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

Nội dung hủy án 

(i) Các văn bản ủy quyền của nguyên đơn cho người đại diện theo ủy quyền là bà Thảo, ông Quân, ông Hùng tham gia tố tụng, nhưng nội dung ủy quyền lại ghi người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là không đúng (BL 42,43,65 - 68).

(ii) Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 7/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, các bên đương sự đã thống nhất như sau: “theo xác định của các đương sự thì hiện nay toàn bộ tấm lợp lấy sáng đang lưu giữ tại nhà kho của Công ty T, đúng là toàn bộ hàng hóa mà Công ty N đã giao cho Công ty T” (BL 95 -96). Biên bản trên không thể hiện Công ty N đã giao cho Công ty T tấm lợp loại sóng vuông hay sóng tròn để đánh giá lời khai của các bên đương sự.

Như vậy, Công ty T đã thỏa thuận với Công ty N đặt mua tấm lợp là “sóng vuông”. Nhưng theo lời khai của ông D thì Công ty N đã giao cho Công ty T tấm lợp loại “sóng tròn”. Tuy nhiên, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, chưa có tài liệu nào thể hiện Công ty N đã giao cho Công ty T tấm lợp là “sóng vuông, hay sóng tròn”. Thực tế hiện nay toàn bộ hàng hóa của Công ty N đang được bảo quản trong kho của Công ty T trong tình trạng nguyên tem, chưa sử dụng. Cấp sơ thẩm chưa làm rõ mâu thuẫn này trong lời khai của các bên đương sự.

Từ những phân tích trên, cho thấy cấp sơ thẩm cấp sơ thẩm chưa xác minh, thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ. Nhận định phía Công ty N đã giao đúng hàng, tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên là không có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự trong vụ án. Vi phạm trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.

5. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2024/KDTM-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp  hợp đồng thi công

Nội dung hủy án 

(i) Hai bên chưa nghiệm thu, bàn giao thì phát sinh tranh chấp. Do đó, tranh chấp giữa hai bên là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa và tranh chấp về hợp đồng xây dựng; pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Luật Thương mại và Luật Xây dựng, trường hợp Luật Thương mại và Luật xây dựng không có quy định thì áp dụng các quy định chung của Bộ luật Dân sự để giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về “Hợp đồng thi công” là chưa chính xác.

(ii) Quá trình thực hiện hợp đồng, bản án sơ thẩm nhận định bị đơn Công ty V1 vi phạm thỏa thuận về thời gian thanh toán nhưng không phân tích làm rõ Công ty V1 thanh toán lần thứ 1 là ngày nào và đến ngày nào thì Công ty V1 thanh toán đủ 50%? Trường hợp Công ty V1 chậm thanh toán theo thỏa thuận thì Công ty Đ1 có khiếu nại và dừng thực hiện hợp đồng hay không? Việc xử lý hành vi vi phạm hợp đồng của một bên phải căn cứ vào quy định tại Điều 294 và 308 của Luật Thương mại để xem xét xử lý.

(iii) Hợp đồng chưa được nghiệm thu, bàn giao và có tranh chấp; Tòa án cấp sơ thẩm không xác định hợp đồng đã hoàn thành hay chưa? Tài sản của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ theo hợp đồng hay chưa? Bị đơn có sử dụng tài sản của nguyên đơn đã thực hiện theo hợp đồng hay không mà buộc bị đơn phải thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng cho nguyên đơn là chưa đủ căn cứ. Không định giá hoặc thẩm định giá tài sản mà nguyên đơn đã thực hiện theo hợp đồng là thiếu sót.

(iv) Ngoài ra, hồ sơ vụ án và lời khai của hai bên còn có liên quan đến đơn vị tư vấn thiết kế là Công ty TNHH tư vấn thiết kế Phú Hưng Thịnh nhưng Tòa án án cấp sơ thẩm không triệu tập lấy lời khai của đơn vị tư vấn thiết kế đề làm rõ lỗi vi phạm hợp đồng, hợp đồng đã thực hiện đến giai đoạn nào? Không thu thập tài liệu liên quan đến hợp đồng mà bị đơn đã ký duyệt theo quy định tại Điều 11 của hợp đồng là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

6. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2023/KDTM-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Nội dung sửa án 

Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH MTV A. Buộc Công ty TNHH MTV N có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Công ty TNHH MTV A số tiền 2.108.527.000đ (Hai tỷ một trăm lẻ tám triệu năm trăm hai mươi bảy ngàn đồng) trong đó tiền cọc là 1.900.000.000 đồng (Một tỷ chín trăm triệu đồng) và tiền phạt vi phạm hợp đồng là 208.527.000 đồng (Hai trăm lẻ tám triệu năm trăm hai mươi bảy ngàn đồng) là không có căn cứ, không đúng thực tế khách quan và không đúng thoả thuận của các bên.

7. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện

Nội dung sửa án 

(i) Vào ngày 31/12/2020, Công ty A (gọi tắt là công ty BMPower) và Tổng công ty điện lực miền nam (gọi tắt là tổng công ty điện lực) ký hợp đồng mua bán điện cho hệ thống điện mặt trời mái nhà số 1721380 với nội dung công ty BMPower bán điện năng được sản xuất từ hệ thống điện mặt trời mái nhà cho tổng công ty điện lực miền nam có công suất lắp đặt là 930 Kwp, thời gian thực hiện hợp đồng từ ngày 31/12/2020 đến ngày 31/12/2040, hợp đồng bằng văn bản. Thực hiện hợp đồng công ty BMPower đã lắp đặt thực tế 930Kwp; do công ty BMPower đầu tư xây dựng và vận hành tại ấp Đông Hưng 3, xã Đông Thành, thị xã BM, phía tổng công ty điện lực cũng thừa nhận nên không cần phải chứng minh theo quy định tại điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

(ii) Xét quá trình thực hiện hợp đồng công ty BMPower đã cung cấp công suất thực tế là 930 Kwp (số lượng cao hơn so với biên bản nghiệm thu là 400 kwp), phía tổng công ty điện lực cũng không có ý kiến gì và công ty điện lực đã trả tiền điện cho công ty BMPower theo công suất thực tế 930 kwp từ ngày ký kết hợp đồng đến tháng 5/2021 mặc dù biết rõ công suất phát ra là trên sản lượng 930 kwp, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện công ty điện lực BMthừa nhận sản lượng điện năng thực tế từ điện mặt trời phát lên lưới qua điện lực của công ty BMPower có công suất 930 kwp, đồng thời theo hợp đồng ký kết giữa công ty BMPower và tổng công ty điện lực thể hiện “cùng nhau thỏa thuận ký hợp đồng mua bán điện để mua điện năng lượng được sản xuất từ hệ thống điện mặt trời mái nhà có công suất lắp đặt là 930 kwp”, việc công ty BMPower cung cấp lượng điện năng đúng theo hợp đồng và hai bên ký kết hợp đồng là tự nguyện và phù hợp công suất lắp đặt theo hợp đồng mà các bên đã ký kết ngày 31/12/2020 và thời gian thực hiện hợp đồng đến ngày 31/12/2040, nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng là có căn cứ theo Quyết định số 13/QĐ-TTg và Quyết định số 18/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, phù hợp với nội dung hợp đồng mà hai bên đã ký kết.

Xét lời trình bày của luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn và đại diện công ty BMPower yêu cầu công ty điện lực trả số tiền vượt so với cấp sơ thẩm giải quyết là 1.502.129.922 đồng là chưa có căn cứ, số tiền này cấp sơ thẩm chưa giải quyết nên cấp phúc thẩm không xem xét.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long đề nghị hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là không có căn cứ, bởi lẽ cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết tranh chấp giữa công ty BMPower và tổng công ty điện lực là phù hợp theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự và thông tư số 27 ngày 31/10/2013 của Bộ công thương, Thông tư số 31 ngày 05/10/2018 của Bộ công thương quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 27 ngày 31/10/2013 của Bộ công thương quy định về kiểm tra hoạt động điện lực và sử dụng điện, giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán điện. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn và bị đơn trình bày khi hai bên không thống nhất nội dung thì có nhờ Sở công thương giải quyết, mặc dù hợp đồng các bên thỏa thuận có thể gởi đơn đến đại diện cấp trên của bên mua hoặc Bộ công thương để xem xét, giải quyết. Tuy nhiên khi phát sinh tranh chấp các bên đều thừa nhận thỏa thuận thủ tục tố tụng dân sự tranh chấp tại tòa án để giải quyết tranh chấp và không chọn Bộ công thương và trọng tại thương mại để giải quyết trong trường hợp này nên cấp sơ thẩm giải quyết theo tố tụng dân sự là phù hợp pháp luật đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn, bị đơn, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp theo trình tự tố tụng dân sự.

Từ những phân tích trên chấp nhận yêu cầu của kháng cáo của nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm.

8. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 18/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

Nội dung sửa án 

Do nguyên đơn có thay đổi yêu cầu khởi kiện nên cấp phúc thẩm sửa phần án phí của cấp sơ thẩm số tiền nguyên đơn phải chịu án phí số tiền 107.137.442 đồng. Ngày 14/3/2023, Công ty TNHH MTV P1 đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 59.576.000 đồng theo lai thu số 0003014 được đối trừ, phải nộp tiếp 47.561.442 đồng.

Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Nguyên đơn là Công ty TNHH MTV P1 phải chịu 2.000.000 đồng, nguyên đơn đã dự nộp được chuyển thu.

9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2024/KDTM-PT ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc tranh chấp hợp đồng mua bán

Nội dung sửa án 

(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về số tiền gốc mà bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn; nguyên đơn đồng ý giảm cho bị đơn 70% tiền lãi theo quyết định của bản án sơ thẩm (tương ứng với số tiền 420.764.274 đồng), số tiền lãi còn lại bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 180.327.547 đồng. Xét thấy, việc nguyên đơn tự ý giảm 70% số tiền lãi theo bản án sơ thẩm đã tuyên cho bị đơn là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của nguyên đơn là phù hợp.

(ii) Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm tính riêng án phí đối với số tiền gốc và án phí đối với số tiền lãi mà bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là không đúng, gây bất lợi cho bị đơn, lẽ ra phải cộng tổng số tiền gốc và lãi mà bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn để tính án phí mới đúng nên Hội đồng xét xử cần sửa lại cho chính xác.

10. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2023/KDTM-PT ngày 09/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Nội dung sửa án 

Đối với một số vật tư tại kho công trình như 07 cái Inverter solis, 08 cái tủ điện DC, 06 cuộn dây diện DC 1000m và phụ kiện ốc vít kèm theo (theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chổ ngày 24/8/2022), thực tế Công ty Thịnh Vượng có tập kết xuống công trình nhưng chưa tiến hành lắp đặt trên công trình, chưa tiến hành nghiệm thu. Quá trình tập kết Công ty Thịnh Vượng cũng không tiến hành thủ tục bàn giao cho Công ty Đồng Phát nên đây là tài sản của Công ty Thịnh Vượng. Đối với 11 cây xà gồ C100 (trong đó có 04 cây sử dụng làm nhà tạm trên phần đất của ông L, 07 cây chưa sử dụng), 07 cây xà gồ Omera (trong đó có 05 cây sử dụng làm nhà tạm trên phần đất của ông L, 02 cây chưa sử dụng).Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Đồng Phát thống nhất xác định đây là tài sản của Công ty Thịnh Vượng nên Công ty Thịnh Vượng có quyền tự tháo dỡ, thu hồi, các bên không tranh chấp. Tuy nhiên việc thỏa thuận này không được ghi nhận vào bản án, sẽ khó khăn trong việc thi hành án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Đồng Phát và người đại diện theo pháp luật của Công ty Thịnh Vượng thống nhất yêu cầu Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận này vào bản án để đảm bảo việc thi hành án nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa về việc không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Đồng Phát và Công ty Thịnh Vượng là phù hợp. Tuy nhiên việc các đương sự yêu cầu ghi nhận phần các vật tư tại công trình chưa được thi công vào bản án để làm cơ sở thi hành án là phù hợp nên Hội đông xét xử chấp nhận. Vì vậy cần sửa một phần bản án sơ thẩm để ghi nhận sự thỏa thuận này.

Góp ý