TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

(Theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hành vi mà một người không có ý định gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác, nhưng do sự thiếu cẩn trọng không tuân thủ quy tắc an toàn hoặc không dự đoán trước được hậu quả của hành động mà gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác.

2. Tội danh

“Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người, là một quyền hiến định và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện các hành vi tác động một cách vật lí vào cơ thể của người khác dẫn đến hậu quả là người đó bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên do vượt quá giới hạn phòng vệ chỉnh đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng giống tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ở các dấu hiệu phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, lỗi cố ý, chủ thể thường. Hai tội phạm này khác nhau chủ yếu ở dấu hiệu hành vi phạm tội (hành vi giết người so với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác) và hậu quả của tội phạm (hậu quả chết người so với hậu quả tổn thương cơ thể từ 31% trở lên).

Tương tự như trên, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội giống với tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Giữa hai tội phạm này khác nhau chủ yếu ở dầu hiệu hành vi phạm tội và dấu hiệu hậu quả của tội phạm.

Lưu ý: Vấn đề đặt ra là, nếu người có hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, nhưng có người bị chết thì truy cứu người phạm tội về hai tội: tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và tội vô ý làm chết người.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý được quy định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự như sau: 

“Điều 11. Vô ý phạm tội

Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;

2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”

3.4. Chủ thể của tội phạm

Người phạm tội có thể là bất kì ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch); từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 12 Bộ luật Hình sự).

Năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Thiếu một trong hai năng lực này, người đó bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực chịu trách nhiệm hình sự và được loại trừ trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Trân trọng./.

Góp ý