TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

(Theo Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được hiểu là hành vi của một người thực hiện các hành động quan hệ tình dục với người khác, trong khi người này ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Dù có sự đồng ý của nạn nhân hay không, pháp luật vẫn coi đây là hành vi vi phạm, vì người ở độ tuổi này chưa đủ trưởng thành và chưa có khả năng nhận thức đầy đủ về các hệ quả của quan hệ tình dục. Hành vi này bao gồm giao cấu (quan hệ tình dục trực tiếp) hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác như quan hệ qua đường miệng, qua đường hậu môn hoặc các hành động có tính chất kích dục khác.

2. Tội danh

“Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

c) Có tính chất loạn luân;

d) Làm nạn nhân có thai;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Hành vi phạm tội đã xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục.

Nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nếu giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân dưới 13 tuổi thì phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 Bộ luật Hình sự).

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi phạm tội là hành vi giao cấu thuận tình hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thuận tình với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Dù có sự đồng ý của nạn nhân hay không, pháp luật vẫn coi đây là hành vi vi phạm, vì người ở độ tuổi này chưa đủ trưởng thành và chưa có khả năng nhận thức đầy đủ về các hệ quả của quan hệ tình dục.

Nếu người bị hại dưới 13 tuổi, dù được sự đồng ý của người bị hại thì người phạm tội vẫn phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự). Nếu người bị hại đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng phải miễn cưỡng giao cấu hoặc giao cấu trái ý muốn thì cấu thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144Bộ luật Hình sự) hoặc hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 1 Điều 142Bộ luật Hình sự).

Nếu giao cấu thuận tình với người từ đủ 16 tuổi trở lên thì không phạm tội, trừ trường hợp mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329Bộ luật Hình sự); hoặc phạm tôi loạn luân (Điều 184 Bộ luật Hình sự nếu giữa những người này có cùng dòng máu về trực hệ hoặc anh chị em ruột).

Phương thức thực hiện: Người phạm tội có thể sử dụng nhiều phương thức để thực hiện hành vi, như lợi dụng sự thiếu hiểu biết, non nớt về tâm lý của nạn nhân, hoặc dùng quyền lực, đe dọa, dụ dỗ hoặc lợi dụng sự tin tưởng của nạn nhân.

Hành vi này dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, bao gồm:

- Hậu quả về thể chất: Nạn nhân có thể bị tổn thương về cơ thể, đặc biệt là ở cơ quan sinh dục. Ngoài ra, nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục và việc mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên có thể gây ra những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng cho nạn nhân.

- Hậu quả về tâm lý: Nạn nhân có thể phải đối mặt với những tổn thương tâm lý sâu sắc, bao gồm cảm giác sợ hãi, xấu hổ, tự ti, mất tự tin, hoặc thậm chí là trầm cảm. Những tổn thương này có thể kéo dài, ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý và cuộc sống sau này của nạn nhân.

- Hậu quả về xã hội: Nạn nhân có thể bị kỳ thị, phân biệt đối xử từ gia đình, bạn bè và xã hội. Sự kỳ thị này có thể dẫn đến việc nạn nhân bị cô lập, khó khăn trong việc hòa nhập xã hội, ảnh hưởng đến học tập và cuộc sống hàng ngày.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Trân trọng./.

Góp ý