Quyết định giám đốc thẩm số 02/2023/HNGĐ-GĐT ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn”
Nội dung hủy án:
1. Về nguồn gốc thửa đất thửa số 24, tờ bản đồ 109 loại đất trồng cây lâu năm (nay là thửa đất số 100, tờ bản đồ số 27) tại xã Hòa X, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk, diện tích đất ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 12.300m2, diện tích đo đạc thực tế là 11.029,3m2 là tài sản của mẹ ông Nguyễn Văn Đ là cụ Lâm Thị Ng được chia khi ly hôn. Ông Đ và bà Chu Thị Hồng Th kết hôn năm 2001, ngày 05/5/2004, cụ Ng đã lập Giấy ủy quyền sử dụng đất với nội dung “Nay vì đã có tuổi nên tôi quyết định ủy quyền sử dụng lô đất nêu trên đang đứng tên ông Nguyễn Văn H sang tên con trai là Nguyễn Văn Đ, hiện thường trú cùng địa chỉ 591A Lê Duẩn, được trọn quyền sử dụng đất lâu dài và có trách nhiệm chăm lo cuộc sống sau này của tôi. Giấy ủy quyền được Ủy ban nhân dân phường Ea T chứng thực; đến ngày 20/7/2005, cụ Ng với ông Nguyễn Văn Đ đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo đó cụ Ng chuyển nhượng thửa đất này cho ông Đ dưới hình thức “Bố mẹ cho con”, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hòa X và Ủy ban nhân dân thành phố T. Tại Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/7/2005, Tờ khai lệ phí trước bạ nhà đất ngày 12/9/2005, Tờ khai thuế chuyển quyền sử dụng đất ngày 12/9/2005 đều thể hiện người sử dụng đất là cá nhân ông Đ. Đến ngày 11/11/2005 thì ông Đ được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại mục người sử dụng đất ghi: HộNguyễn Văn Đ, vợ (chồng): … (để trống); nguồn gốc sử dụng: Nhận tặng cho. Theo quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 (Điều 43 và Điều 46 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014) thì tài sản riêng của vợ (chồng) bao gồm tài sản được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định: “1. Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặ chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”. Như vậy, căn cứ vào việc ông Đ được cụ Ng tặng cho riêng quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một mình ông Đường, đồng thời cũng không có văn bản nào thể hiện ông Đ đồng ý nhập quyền sử dụng đất này vào tài sản chung vợ chồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xác định quyền sử dụng đất này là tài sản riêng của ông Đ là có căn cứ. Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hộ Nguyễn Văn Đ, ông Đ không có ý kiến hay khiếu nại và vợ chồng cùng sử dụng đất, từ đó xác định quyền sử dụng đất này là tài sản chung của vợ chồng là không phù hợp với tài liệu, chứng cứ và quy định của pháp luật như đã nêu trên.
2. Do xác định quyền sử dụng đất rẫy là tài sản riêng của ông Đ nên cần phải xem xét, chia lại tài sản chung của ông Đ, bà Th sau khi ly hôn cho phù hợp, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 60/QĐ-VKS-DS ngày 08/9/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ, nên chấp nhận, huỷ Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án. Đối với yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Đ về buộc bà Chu Thị Hồng Th phải hoàn trả lại 1/2 khoản tiền ông đã trả nợ Ngân hàng và về án phí, Toà án sẽ xem xét, quyết định khi thụ lý, giải quyết lại vụ án.