Quyết định giám đốc thẩm số 01/2021/HNGĐ-GĐT ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hôn nhân và gia đình về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”
Nội dung hủy án:
1. Hồ sơ vụ án thể hiện, đối với tài sản là tiền, vàng và ngoại tệ gửi tại các ngân hàng mà ông V yêu cầu chia có: 03 tài khoản tiền GBD (Bảng Anh), 03 tài khoản tiền USD (đô la Mỹ) tại Ngân hàng E mang tên chủ tài khoản là ông Lê Hoàng V1 (Tài khoản số 220764849235202, số tiền gửi: 220.056,23GBP; Tài khoản số 220767590000761, số tiền gửi: 100.026,94GBP; Tài khoản số 220767590000980, số tiền gửi: 1.080.186GBP; Tài khoản số 220764849235465, số tiền gửi: 3.150.000USD; Tài khoản số 220767590000867, số tiền gửi: 3.400.000USD; Tài khoản số 220767590000870, số tiền gửi: 800.000USD). Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ số tiền đó thuộc quyền sở hữu của ai, ai là người đang quản lý số tiền này, nhưng lại xác định số tiền tại các tài khoản nêu trên là tài sản chung của vợ chồng ông V và bà Th là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này là có căn cứ.
2. Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông V1 vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa đề nghị hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để xét xử lại từ sơ thẩm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nhận thấy: Nếu căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 và Điều 346 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm, một phần bản án phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với việc ông V yêu cầu chia số tiền ngoại tệ: 1.400.269,17 GBP, 7.350.000 USD trong 06 tài khoản do ông Lê Hoàng V1 đứng tên thì quyền, nghĩa vụ của ông V1 trong vụ án không còn, cũng có nghĩa là không cần phải đưa ông V1 tham gia tố tụng với tư cách người có quyền, nghĩa vụ liên quan mà vẫn giải quyết được vụ án. Ngược lại, nếu Hội đồng xét xử giám đốc thẩm căn cứ khoản 4 Điều 68, khoản 3 Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hủy một phần bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm về chia tài sản chung của của ông V với bà Th để xét xử lại từ sơ thẩm vì lý do Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa đưa ông V1 vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; khi xét xử lại từ cấp sơ thẩm, Tòa án cũng sẽ đình chỉ đối với phần ông V phản tố “yêu cầu chia số tiền ngoại tệ trong 6 tài khoản do ông V1 đứng tên” (vì ông V rút yêu cầu này), như vậy khi giải quyết lại, Tòa án cấp sơ thẩm cũng sẽ không đưa ông V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. So sánh giữa trường hợp Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm, một phần bản án phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với việc ông V xin chia số tiền ngoại tệ trong 6 tài khoản đứng tên ông V1 với trường hợp Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án phúc thẩm để xét xử lại như đã phân tích trên đây cho thấy: Về bản chất và kết quả của của hai cách giải quyết nói trên vẫn như nhau, kết quả giải quyết cuối cùng là “đình chỉ giải quyết vụ án đối với việc ông V xin chia số tiền ngoại tệ trong 6 tài khoản đứng tên ông V1”; nhưng nếu Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy và đình chỉ đối với việc ông V xin chia số tiền ngoại tệ trong 6 tài khoản đứng tên ông V1 thì vụ án sẽ được giải quyết nhanh chóng hơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về nội dung này; xác định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là vi phạm tố tụng nghiêm trọng; đồng thời chấp nhận việc rút một phần yêu cầu phản tố của ông V đối với số tiền trong 06 tài khoản đứng tên ông Lê Hoàng V1 tại Ngân hàng E, hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với một phần yêu cầu phản tố của ông V về việc chia số tiền trong 06 tài khoản đứng tên ông Lê Hoàng V1 tại Ngân hàng E nêu trên.
3. Về quan hệ hôn nhân. Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án, bà Th kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Th xin rút yêu cầu ly hôn với ông V, ông V không đồng ý đoàn tụ, đề nghị ly hôn. Khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật”. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu rút đơn xin ly hôn, xin được đoàn tụ của bà Th và tuyên “Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm…; Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Lê Hoàng Diệp Th và ông Đặng Lê Nguyên V” là chưa phù hợp với diễn biến của vụ án, mà nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông V mới đúng. Tuy nhiên, việc Tòa án công nhận thuận tình ly hôn hay xử cho vợ chồng ly hôn thì xét về bản chất cũng là chấm dứt quan hệ hôn nhân. Trong vụ án này, quan hệ hôn nhân giữa ông V và bà Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần thiết phải chấp nhận cho ông V, bà Th ly hôn. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về nội dung này là có căn cứ. Tuy nhiên, việc giải quyết cho các bên ly hôn trong vụ án này là cần thiết, do đó, không cần phải hủy đối với phần này của Bản án phúc thẩm, mà chỉ cần sửa cách tuyên về quan hệ hôn nhân giữa ông V và bà Th là phù hợp.