
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi và chồng cũ vừa hoàn tất thủ tục ly hôn cách đây không lâu. Theo bản án của Tòa án, tôi là người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, trong quá trình chăm sóc con, tôi thường gặp khó khăn do chồng cũ ít hợp tác, không hỗ trợ tinh thần cũng như các vấn đề liên quan đến việc học hành, khám chữa bệnh của con. Luật sư cho tôi hỏi sau khi ly hôn, pháp luật quy định như thế nào về nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con?
MỤC LỤC
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Căn cứ theo Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
Theo đó, cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Ngoài ra, cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Căn cứ theo Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Theo đó, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn chỉ được Tòa án xem xét và quyết định khi có yêu cầu từ cha, mẹ hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện luật định nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của con. Quá trình giải quyết phải chú trọng nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên và đánh giá toàn diện khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ. Trong trường hợp đặc biệt, nếu cả cha và mẹ đều không còn đủ điều kiện, Tòa án sẽ giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự, nhằm bảo vệ tối đa sự phát triển và quyền lợi hợp pháp của người con.
Trân trọng./.