Chồng chơi tiền ảo, khi ly hôn có phải chia cho vợ không?

Chồng chơi tiền ảo, khi ly hôn có phải chia cho vợ không?

Chồng chơi tiền ảo, khi ly hôn có phải chia cho vợ không?

Luật sư cho tôi hỏi: Chồng tôi có tham gia đầu tư vào tiền ảo (như Bitcoin, Ethereum,...) trong thời kỳ hôn nhân, sử dụng một phần tiền tiết kiệm chung để đầu tư. Hiện nay, chúng tôi đang làm thủ tục ly hôn. Xin hỏi luật sư, số tiền ảo này có được xem là tài sản chung không? Và nếu có thì khi ly hôn, tôi có được chia phần tài sản đó không?

MỤC LỤC

1. Tiền ảo là gì?

2. Chồng chơi tiền ảo, khi ly hôn có phải chia cho vợ không?

Trả lời:

1. Tiền ảo là gì?

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa đưa ra khái niệm chính thức về “tiền ảo”. Tuy vậy, trong thực tiễn, tiền ảo, hay còn gọi là tiền mã hóa thường được hiểu là một dạng tiền kỹ thuật số có giá trị được mã hóa và lưu trữ dưới dạng dữ liệu điện tử.

Loại tiền này hoạt động hoàn toàn độc lập, không chịu sự kiểm soát trực tiếp của bất kỳ tổ chức trung gian nào như ngân hàng hay cơ quan nhà nước. Giao dịch tiền ảo diễn ra thông qua các nền tảng trực tuyến hoặc hệ thống mạng lưới có tính bảo mật cao.

Tiền ảo mang lại một số ưu điểm đáng chú ý như tốc độ giao dịch nhanh, dễ tiếp cận và thao tác đơn giản. Tuy nhiên, do không được pháp luật bảo hộ và thiếu sự giám sát của cơ quan quản lý, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về tính an toàn và minh bạch trong giao dịch.

2. Chồng chơi tiền ảo, khi ly hôn có phải chia cho vợ không?

Căn cứ theo quy định tại Điều 105 và Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Điều 105. Tài sản

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Điều 115. Quyền tài sản

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”

Bên cạnh đó, theo Công văn số 5747/NHNN-PC năm 2017:

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhận được Công văn 7061/ĐMDN ngày 06/07/2017 của Văn phòng Chính phủ đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, xử lý và trả lời ông Vũ Thái Hà về kiến nghị liên quan đến việc thiết kế trung tâm máy tính đào Bitcoin, Litecoin và các loại tiền ảo. Sau khi nghiên cứu, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có một số ý kiến như sau:

- Khoản 2 Điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định: “Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

- Khoản 6, 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ v việc thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định: “6. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này.”

- Khoản 6 Điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định về các hành vi bị cấm: “6. Phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp”.

Căn cứ quy định nêu trên, tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý hành vi này đã được quy định tại Nghị định 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, về việc đầu tư vào tiền ảo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cảnh báo nhiều lần việc đầu tư này tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nhà đầu tư.

Theo đó, tiền ảo nói chung không phù hợp với điều kiện nào để được xem là tài sản cũng như tiền tệ theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, nó sẽ không được xem là tài sản có thể chia được khi vợ chồng tiến hành ly hôn.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý