
Làm sao để phân biệt tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp hậu quả làm chết người?
Luật sư cho tôi hỏi: Làm sao để phân biệt tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp hậu quả làm chết người theo quy định pháp luật?
MỤC LỤC
1. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được pháp luật quy định như thế nào?
2. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọngđược pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được pháp luật quy định như thế nào?
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định cụ thể tại Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
‘‘Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
1. Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh sự của con người.
2. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được pháp luật quy định như thế nào?
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định cụ thể tại Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
“Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thuộc nhóm tội phạm về chức vụ.
3. Phân biệt tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp hậu quả làm chết người
| Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ | Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng |
Mặt khách thể | Hành vi làm cho người khác bị chết do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ của người thi hành công vụ đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của con người được pháp luật bảo vệ. Đối tượng tác động là cơ thể người khác. Nạn nhân của hành vi phạm tội này là những người bị người thi hành công vụ sử dụng vũ khí nhằm bắt giữ hoặc ngăn chặn hành vi phạm pháp (Ví dụ: tội phạm truy nã bỏ trốn bị cơ quan công an vây bắt) hoặc công dân bình thường người thi hành công vụ xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe (Ví dụ: người đi đường bị người thi hành công vụ bắn lạc đạn). | Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức và tính mạng, sức khỏe của người dân; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hóa, biến chất.
|
Mặt chủ thể | Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo luật quy định. Chủ thể của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là chủ thể đặc biệt. Họ là những người đang thi hành công vụ nói chung, đó là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng một loại công cụ nào đó để giúp sức người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội, do đó xâm phạm tính mạng của người khác thì cũng được coi là người thi hành công vụ. | Người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Cũng như đối với một số tội phạm về chức vụ, chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này là việc làm đầu tiên khi xác định hành vi phạm tội. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, trách nhiệm của người phạm tội là trách nhiệm gián tiếp đối với hậu quả xảy ra (hành vi thiếu trách nhiệm không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng). Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" với ba trường hợp thiếu trách nhiệm quy định tại các Điều 179, 308 và 376 BLHS. |
Mặt khách quan | - Hành vi làm chết người do dùng vũ lực là việc dùng sức mạnh vật chất tác động vào thân thể của người khác làm cho người đó chết. Việc dùng vũ lực đó được thực hiện khi đang thi hành công vụ, hành vì dùng vũ lực có thể dùng tay không, hoặc công cụ, phương tiện phạm tội (súng, lựu đạn, dùi cui,...). - Hành vi dùng vũ lực ngoài các trường hợp pháp luật cho phép là việc dùng vũ lực trái với các quy định của pháp luật trong khi thi hành công vụ. Ví dụ: Dùng vũ khí quân dụng không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017. - Hành vi làm chết người này phải được thực hiện trong khi thi hành công vụ. Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất trực tiếp tác động vào thân thể người khác gây nên những hậu quả nhất định. Các hình thức dùng vũ lực như dùng vũ khí hoặc tay chân đấm, đá… Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nạn nhân là người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích mà người phạm tội có nhiệm vụ bảo vệ. Việc đánh giá dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép phải căn cứ vào các quy định cụ thể về sử dụng vũ khí … hoặc đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể dùng hung khí khác nhau. Nếu trong quá trình thi hành công vụ mà phải chống trả lại sự tấn công trái pháp luật của nạn nhân thì không thuộc tội phạm này mà thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Trong trường hợp đang thi hành công vụ, lại coi thường tính mạng của người khác, sử dụng súng vô nguyên tắc bắn chết người thì dù là người đang thi hành công vụ vẫn phạm tội giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự. | Bản thân của hành vi thiếu trách nhiệm đã phản ánh bản chất của tội phạm. Nhưng biểu hiện của hành vi thiếu trách nhiệm lại không phải giống nhau, nó tùy thuộc vào nhiệm vụ được giao và tùy vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả. Dù được biểu hiện như thế nào thì hành vi của người phạm tội cũng là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao. Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong công tác quản lý, điều hành của người có chức vụ, quyền hạn được biểu hiện như: vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ liên quan đến việc quản lý Nhà nước, quản lý con người, quản lý tài sản... Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý tài sản có thể là nguyên tắc, chế độ quản lý kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là nguyên tắc, chế độ về hành chính nhưng có liên quan đến quản lý tài sản, đôi khi chỉ là một bản nội quy cơ quan nếu vi phạm mà gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng bị coi là thiếu trách nhiệm. Thiếu trách nhiệm là không làm (không làm gì cả, không hành động) hoặc làm không đúng trách nhiệm được giao (có làm nhưng lại làm không đến nơi đến chốn, làm sai với nhiệm vụ được) nên mới gây hậu quả, nếu họ làm đúng trách nhiệm được giao thì không thể gây hậu quả. Trường hợp đã làm hết trách nhiệm mà hậu quả vẫn xảy ra thì không phải là thiếu trách nhiệm và không phải là hành vi phạm tội này, dù hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Hành vi trên phải gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của con người và của cơ quan, tổ chức hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của BLHS. |
Mặt chủ quan | - Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý hoặc vô ý. Người phạm tội cố ý đối với hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép nhưng không mong muốn cho hậu quả xảy ra, để mặc cho hậu quả xảy ra hoặc tin rằng hậu quả chết người không xảy ra. - Động cơ phạm tội là để bảo vệ trật tự, trị an cho xã hội, mong muốn thực hiện tốt công vụ của mình. Nếu họ thực hiện hành vi nói trên do hống hách, coi thường tính mạng, sức khỏe người khác mà sử dụng vũ khí một cách bừa, ẩu hoặc do tư thù cá nhân, thì tùy tình hình của sự việc có thể xử lý về Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự), đồng thời, có xem xét hoàn cảnh và động cơ phạm tội để cân nhắc tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trong khung của điều luật được áp dụng. | Người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thực hiện hành vi là do vô ý.Việc xác định lỗi vô ý gây hậu quả nghiêm trọng của người phạm tội là bắt buộc, nhưng không bắt buộc phải xác định người phạm tội do vô ý vì quá tự tin hay vô ý vì cẩu thả. Động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc trong việc cấu thành tội phạm này. Đây là một điểm khác biệt so với một số tội danh khác, trong đó người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội có chủ đích. Do đó, khi xem xét trách nhiệm hình sự đối với tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", nếu có xác định động cơ phạm tội thì điều này chỉ mang ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt, không ảnh hưởng đến việc định tội.
|
Trân trọng./.