
Đã kết hôn với người khác sau khi chồng mất thì vợ có được hưởng thừa kế di sản của người chồng đã mất hay không?
Luật sư cho tôi hỏi: Vợ chồng hàng xóm nhà tôi đã kết hôn được gần 10 năm rất hạnh phúc. Tuy nhiên dịch bệnh Covid quái ác đã cướp đi người chồng, để lại người vợ lủi thủi trong căn nhà với đứa con học cấp 2. Lúc người chồng qua đời, vì tình hình xã hội và một số vấn đề khách quan mà gia đình họ chưa làm thủ tục chia thừa kế di sản mà anh ấy để lại. Nay đứa con đã dần bước vào ngưỡng cửa lớp 10 nên gia đình họ có ý định chia di sản thừa kế gồm vài mảnh đất và một khoản tiền tiết kiệm lớn của người chồng để lại để hỗ trợ chi phí ăn học cho con trẻ. Tôi được biết sau khi người chồng mất được 3 năm, người vợ đã “đi bước nữa” với người đàn ông khác. Nhờ luật sư giải đáp giúp tôi trong trường hợp này thì người vợ đã kết hôn với người khác sau khi chồng mất có được hưởng thừa kế di sản của anh ấy hay không?
MỤC LỤC
2. Trường hợp nào sẽ không được quyền thừa kế di sản?
Trả lời:
1. Đã kết hôn với người khác sau khi chồng mất thì vợ có được hưởng thừa kế di sản của người chồng đã mất hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 650, điểm a khoản 1 Điều 651, khoản 3 Điều 655 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Và
“Điều 655. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác
...
3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.”
Theo đó, vào thời điểm người chồng chết thì người vợ vẫn đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp với người chồng, đồng nghĩa với việc người vợ được xem là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chồng. Do đó, dù sau này đã kết hôn với người khác nhưng tại thời điểm người chồng chết mà mối quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng vẫn còn thì người vợ lúc này vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chồng để lại.
Ngoài ra, còn cần lưu ý về vấn đề thời hiệu thừa kế, cụ thể tại khoản 1 Điều 623, khoản 1 Điều 611 và Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 623. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”
“Điều 611. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
Và
“Điều 71. Tuyên bố chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
2. Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Như vậy kể từ thời điểm người chồng chết cho tới khi có yêu cầu chia di sản thừa kế là 03 năm, tức vẫn còn nằm trong thời hiệu thừa kế di sản. Do đó, việc chia di sản cho những người thừa kế trong trường hợp này là phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Trường hợp nào sẽ không được quyền thừa kế di sản?
Căn cứ theo quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
"Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”
Theo đó, nếu vi phạm vào một trong các trường hợp sau đây thì sẽ không được quyền hưởng di sản:
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên những người vi phạm một trong các trường hợp trên vẫn có thể được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Trân trọng./.