Bản án hình sự phúc thẩm số 84/2017/HS-PT ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Huỳnh Văn T do có kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T và kháng cáo của người tham gia tố tụng khác Ngô Thị L

28/07/2024
Luật Nghinh Phong
180
0

Nội dung hủy án:   

(i) Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, không xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn Tình và bà Ngô Thị L do bản án sơ thẩm xác định sai người đại diện hợp pháp của người bị hại, xác định sai vật chứng.

(ii) Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự hành vi của T cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại các Điểm a,i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự bắt buộc người bị hại phải có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì mới được khởi tố vụ án. Theo lời khai của bà L và tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện, trong khoảng thời gian từ khi bị đánh là ngày 06- 02-2016 đến khi chết, ông S là người bị hại trong vụ án này không có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo Huỳnh Văn T, chỉ có đơn thưa của bà Ngô Thị L (bút lục số 04-05). Sau khi ông S chết, ngày 20-11-2016 con gái ông S là chị Quang Thị Tuyết N ( BL 140) và bà Ngô Thị L có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Huỳnh Văn T về tội “Giết người”. Việc cơ quan điều tra khởi tố vụ án mà không có yêu cầu của ông S, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu truy tố T về tội “Cố ý gây thương tích” theo các điểm a, i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự là chưa đúng quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân huyện Tân Châu tuyên bố Huỳnh Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự; điểm p, khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T 09 (chín) tháng tù là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

(iii) Người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định của pháp luật phải là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại. Theo hồ sơ vụ án thể hiện ông S có vợ là bà Lê Thị Thu H (chưa ly hôn) có 03 người con chung với ông Sâm là Quang Bình A, Quang Trung T, Quang Thị Tuyết N (BL138, 139,140) nhưng cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của ông Quang Văn S là chưa đúng quy định pháp luật. Bà Ngô Thị L khai sống chung với ông S từ năm 2009, không có đăng ký kết hôn. Cấp sơ thẩm xác định chị Quang Thị Tuyết Nh và bà Ngô Thị L là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Quang Văn S là không đúng; do bà L không phải là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của ông S. Đối với cháu Ngô Quang T, trong Giấy khai sinh không thể hiện ông S là cha nhưng được các bên đương sự khai là con chung của ông S nên có căn cứ xác định cháu T là một trong những người đại diện hợp pháp của ông S. Do cháu T chưa thành niên nên bà L là người giám hộ tham gia vụ án với tư cách là người đại diện hợp pháp của cháu T. Trong trường hợp bà L có bỏ ra chi phí chữa trị thương tích và trực tiếp chăm sóc cho ông Sâm thì đồng thời đưa bà tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cấp sơ thẩm khi xét xử chỉ đưa bà L và chị N tham gia tố tụng là đưa thiếu người tham gia tố tụng đồng thời xác định tư cách của bà L chưa đúng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng khác; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(iv) Theo quy định tại Điều 74 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Trong vụ án này cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng là sợi dây xích T dùng đánh ông S nên dùng 01 sợi dây xích loại tương tự để xem xét, so sánh. Do vậy, sợi dây xích cùng loại này không phải là vật chứng trong vụ án. Việc cơ quan điều tra xác định là vật chứng nên thu giữ, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật Hình sự là chưa đúng quy định pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý