Bản án hình sự phúc thẩm số 67/2023/HS-PT ngày 18/05/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử về tội “Trốn thuế” đối với bị cáo Hồ Thị C do có kháng cáo của bị cáo Hồ Thị C

15/11/2024
Luật Nghinh Phong
117
0

Nội dung hủy án:   

(i) Như vậy, về trình tự, thủ tục kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế được thực hiện theo Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày 02/01/2018 của chủ tịch UBND thành phố T13. Tuy Nhiên, căn cứ vào khoản 1 Điều 62 của Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ T15 thì việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế chỉ được thực hiện khi có quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế. Quyết định kiểm tra thuế do thủ trưởng cơ quan thuế ban hành. Theo Luật quản lý thuế năm 2006 thì việc kiểm tra thuế phải tuân theo quy định tại các Điều 77, 78, 79 và Điều 80. Như vậy, quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra thuế do cơ quan quản lý thuế các cấp tiến hành gồm: Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế và Tổng cục hải Q1, Cục H7, Chi cục hải quan. Và trước khi có quyết định số 05/QĐ-UBND thành phố T13 thì doanh nghiệp tư nhân D đã làm thủ tục giải thể và gửi cho Chi cục thuế Q để được hướng dẫn thủ tục nộp thuế của doanh nghiệp, nhưng D chưa nhận được phản hồi từ Chi cục thuế thành phố Q.

(ii) Quá trình điều tra đã xác định hành vi vi phạm về thuế của D cụ thể là hành vi bán hàng không xuất hóa đơn và hành vi bán hàng không đúng giá giao dịch trên thị trường làm giảm số thuế phải nộp, cụ thể đoàn kiểm tra liên ngành đã lấy giá trị hàng tồn kho trên sổ sách kế toán của D (44.636.991.559 đồng), trừ đi giá trị hàng tồn kho thực tế (theo kiểm kê của đoàn kiểm tra liên ngành là 509.308.894 đồng), cho ra giá trị chênh lệch là 44.127.682.665 đồng). Như vậy, D đã bán hàng không xuất hóa đơn 44.127.682.665 đồng. Sau khi trừ đi số tiền 5.219.340.342 đồng (gồm 511.312.889 đồng đối với sim điện thoại với mức tỷ lệ chiết khấu tối đa 35% tính trên mệnh giá sim và 4.708.027.453 đối với thẻ cào điện thoại với mức tỷ lệ chiết khấu tối đa 10% tính trên mệnh giá thẻ cào). Do đó, số tiền thuế giá trị gia tăng mà D phải nộp là 3.938.348.014 đồng. Tuy nhiên, cơ quan điều tra cấp sơ thẩm chưa làm rõ được số lượng hàng hóa và giá trị hàng mà bị cáo Hồ Thị C đã bán thực tế là bao nhiêu? Căn cứ vào lời khai của những người làm chứng đã từng mua hàng của D thì chỉ có vài trường hợp mua hàng của D cũng không đủ cơ sở để chứng minh hành vi bán hàng không xuất hóa đơn với giá trị 44.127.682.665 đồng. Trong khi đó tại phiên tòa bị cáo khai số lượng hàng hóa sim card điện thoại bị thất thoát, hư hỏng rất nhiều và hết thời hạn sử dụng.

(iii) Về thành phần tổ giám định tư pháp: Tại quyết định số 741/QĐ-CT ngày 14/5/2019 về việc cử giám định viên tư pháp thì trong thành phần tổ giám định viên tư pháp về thuế được cử chỉ có ông Trần Văn K và ông Trần Tấn B là giám định viên tư pháp, còn ông Nguyễn Hoàng T2 không phải là giám định viên tư pháp hay là giám định tư pháp theo vụ việc (được UBND tỉnh công bố danh sách). Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật giám định tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2012 của Quốc Hội: Giám định tư pháp bao gồm giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc được cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với người giám định tư pháp tại địa phương) lập, công bố danh sách theo quy định; đồng thời về điều kiện bổ nhiệm làm giám định viên hoặc lựa chọn làm người giám định theo vụ việc thì phải có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.

Như vậy, thành phần tổ giám định tư pháp không đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 20 của Luật giám định tư pháp.

Từ những nhận định nêu trên cho thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Để có căn cứ buộc tội bị cáo về hành vi “Trốn thuế”, cần phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại đối với bị cáo Hồ Thị C về tội “Trốn thuế” theo đúng quy định pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý