Nội dung hủy án:
Xét thấy, sau khi khởi tố bị can Điều tra viên chưa tiến hành điều tra, xác minh để xác định bị can đang ở đâu, có liên lạc được theo số điện thoại gia đình cung cấp hay không là chưa đủ căn cứ để xác định bị can bỏ trốn. Mặt khác, tại hồ sơ thể hiện ông NTT và ông NPH là cán bộ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa tiến hành lập 03 biên bản xác minh vào các ngày 15/5/2019, 24/7/2019 và 25/7/2019 nhưng bà QTO và ông NĐT đều xác định ông NTT và ông NPH chỉ đến xác minh có 01 lần vào ngày 25/7/2019. Nội dung 03 biên bản xác minh nội dung giống nhau, đều thể hiện BVH đi khỏi nơi cư trú khoảng 02 tháng (Trong khi thời gian xác minh biên bản đầu tiên từ 15/5 đến biên bản cuối cùng 25/7/2019 là cách nhau hơn 02 tháng). Việc Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa ban hành quyết định truy nã bị can cùng ngày quyết định khởi tố bị can có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 4 TTLT số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, những tài liệu, chứng cứ mới do luật sư và nhân chứng cung cấp cần được điều tra, thẩm định tính xác thực và có căn cứ nên không thể bổ sung ở giai đoạn phúc thẩm. Do vậy thống nhất với quan điểm của đại diện VKS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của các luật sư hủy bảnán sơ thẩm để điều tra, xác minh có hay không hành vi bỏ trốn của bị cáo BVH và việc truy nã của Cơ quan CSĐT Công an thành phố đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hay chưa là cần thiết để đảm bảo việc xử lý bị cáo đúng quy định của pháp luật.