Bản án hình sự phúc thẩm số 285/2024/HS-PT ngày 23/4/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

28/07/2024
Luật Nghinh Phong
100
0

Bản án hình sự phúc thẩm số 285/2024/HS-PT ngày 23/4/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo Vũ Thành T do có kháng cáo của bị cáo Vũ Thành T và kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án:   

(i) Tòa cấp sơ thẩm xác định chủ hiệu cầm đồ là người bị hại và bị cáo thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tiền của anh C là không chính xác. Vì trước hết bị cáo nhằm vào chủ xe ô tô và phải chiếm đoạt được xe ô tô sau đó mới có điều kiện dùng xe làm phương tiện để trao đổi lấy tiền của chủ hiệu cầm đồ. Do không xác định chủ hiệu cầm đồ là bị hại như phân tích ở trên nên bị cáo cũng không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên để được ông Nguyễn Quang C tin tưởng nhận vật-đưa tiền là do bị cáo đã đặt làm giấy tờ giả để lừa dối ông C. Vì thế, hành vi của bị cáo phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015.

(ii) Tòa sơ thẩm cho rằng để chiếm đoạt được số tiền 250.000.000 đồng của anh Nguyễn Quang C thì hành vi của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời cho rằng hành vi này của bị cáo T thuộc trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội thì bị truy cứu trách nhiệm về tội nặng hơn nên tội “Sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức” bị thu hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là sai lầm trong áp dụng pháp luật và vi phạm giới hạn của việc xét xử được quy định tại Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đó là “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử..” và “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Theo đó Tòa án có thể xét xử về một tội khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, tuy nhiên phải cùng một hành vi đã được truy tố. Trong vụ án này Viện kiểm sát chỉ truy tố bị cáo Vũ Thành T đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức. Do đó nếu Tòa sơ thẩm cho rằng bỏ lọt hành vi chiếm đoạt tài sản khi có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố thì Tòa án cũng chỉ có quyền kiến nghị theo quy định mà không được quyền xét xử.

(iii) Cáo trạng số 42/CT-VKS-P3 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai mô tả thủ đoạn của bị cáo Vũ Thành T: để được ông Nguyễn Quang C tin tưởng giao tiền thì bị cáo Vũ Thành T đã thực hiện hành vi sử dụng giấy tờ giả, sau đó nhận tiền và chiếm đoạt của anh C. Như vậy bị cáo Vũ Thành T đã thực hiện hai hành vi và mỗi hành vi xâm phạm khách thể khác nhau. Đó là xâm phạm trật tư quản lý hành chính của nhà nước, của tổ chức trong lĩnh vực quản lý về con dấu, tài liệu và quan hệ sở hữu. Do đó việc Tòa sơ thẩm nhận định tội “Sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức” được thu hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là bỏ lọt hành vi phạm tội và có sai lầm trong áp dụng pháp luật, vi phạm giới hạn của việc xét xử.

(iv) Với các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy Cáo trạng số 42/CT-VKSP3 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố về tội danh là có căn cứ, nhưng lập luận trong quyết định kháng nghị số 6575/KN-VKS-P2 ngày 08/12/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai cho rằng bị cáo dùng thủ đoạn gian dối (sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký xe và Giấy chứng minh nhân dân giả) là yếu tố định tội của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là không phù hợp. Còn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị số 02/QĐ/VC3-V1 ngày 29/12/2023 xác định hành vi chủ động thuê người làm giấy tờ giả và sử dụng giấy tờ giả mà bị cáo thực hiện có dấu hiệu cấu thành một tội danh độc lập theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự nhưng cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không tiến hành, điều tra, truy tố, xét xử nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại cũng không đúng vì cấp sơ thẩm đã truy tố bị cáo về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Bài viết liên quan

Góp ý