Nội dung hủy án:
(i) Đối với bị cáo Ba Xuân B: Hồ sơ vụ án đã thu thập đầy đủ tài liệu thể hiện tiền sự của Ba Xuân B. Tuy nhiên, trích lục tiền án, tiền sự của Ba Xuân B lập ngày 03/3/2023 lại thể hiện Ba Xuân B không có tiền án, tiền sự trong tàng thư, cơ sở dữ liệu do Phòng hồ sơ nghiệp vụ quản lý.
(ii) Đối với bị cáo Võ Đình C: Lý lịch bị can lập ngày 02/10/2023 thì chỉ thể hiện năm 2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ (Nay là thị xã Đ) áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, không thể hiện thông tin ngày 06/8/2023 bị Công an thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” bằng hình thức phạt tiền, số tiền 8.000.000đồng.
(iii) Đối với bị cáo Nguyễn Phương N: Tại Lý lịch bị can lập ngày 02/10/2023 thể hiện ngày 26/4/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội gây rối trật tự công cộng. Tại Trích lục tiền án tiền sự lập ngày 16/10/2023 thể hiện “Ngày 17/6/1994, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử án treo 6 tháng theo bản án số 32/HSPT”, cấp sơ thẩm chỉ thu thập Bản án hình sự phúc thẩm số 24/HSPT ngày 22/4/1999, tuy nhiên bị cáo N không kháng cáo nên bản án phúc thẩm không có nội dung quyết định hình phạt đối với bị cáo N, do vậy bị cáo N phải chấp hành bản án sơ thẩm nhưng cấp sơ thẩm không thu thập bản án sơ thẩm. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa làm rõ bị cáo bị xử phạt về tội gây rối trật tự công cộng vào năm nào? (Năm 1994 theo bản án số 32/HSPT hay năm 1999 theo bản án số 24/HSPT).
(iv) Ngoài ra, Trích lục tiền án, tiền sự không thể hiện các lần bị xử lý hành chính khác của bị cáo N như lý lịch bị can và tài liệu trong hồ sơ đã thu thập được. Lý lịch bị can không thể hiện: “Ngày 15/8/2022 bị Công an phường N, thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy”.
(v) Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn Phương N:
Theo đơn yêu cầu giảm nhẹ mức án cho con trai Nguyễn Phương N của bà Nguyễn Thị Đề Á và tài liệu kèm theo thể hiện: Bà Á có cha và mẹ là ông Nguyễn T1 và bà Lê Thị C3 là người có công với Cách mạng nhưng Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ chưa yêu cầu bà Á xác nhận quan hệ thân nhân giữa ông Nguyễn T1 và bà Lê Thị C3 đối với bị cáo Nguyễn Phương N để xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là thiếu sót.
(vi) Xét thấy có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị số 352/QĐ-VKS ngày 09/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi để điều tra lại theo thủ tục chung.
Đối với các thiếu sót về nhân thân, lý lịch, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo chưa được xác minh, điều tra làm rõ như nhận định tại mục [1], mục [3] của bản án này, cấp sơ thẩm cần khắc phục trong quá trình điều tra lại.
(vii) Ngày 05/12/2023, Tòa án cấp sơ thẩm đã Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để làm rõ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Ba Xuân B nhưng không được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ thực hiện mà giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ nhận định đây là số ma túy còn lại sau khi sử dụng và các bị cáo có ý định tiếp tục sử dụng. Tuy nhiên, nhận định này là không có cơ sở.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ tiếp tục điều tra, khởi tố đối với Ba Xuân B. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy không có lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.