Nội dung hủy án:
(i) Như vậy, Trần Văn H bị Huỳnh Văn V, Nguyễn Hoàng D bắt giữ từ lúc 23 giờ ngày 18/01/2023 tại Công trình của Dương Hoàng M, số M đường p, quận G và đến 01 giờ ngày 19/01/2023 thì đưa về giữ tại nhà của Lê Thị T, số A ấp T, xã B, huyện H. Nhưng các Cơ quan tố tụng hình sự cấp sơ thẩm xác định Trần Văn H bị bắt giữ từ lúc 01 giờ ngày 19/01/2023 đến 12 giờ ngày 20/01/2023 và nơi giữ tại nhà của Lê Thị T, số A ấp T, xã B, huyện H là không chính xác. Do bỏ lọt thời gian mà các bị cáo bắt giữ tại Công trình của Dương Hoàng M nên Cơ quan điều tra đã không điều tra, làm rõ mục đích Dương Hoàng M gọi Trần Văn H đến là giải quyết việc thi công Công trình bị chậm trễ hay là tìm cớ gọi H tới để giúp Trần Văn D bắt giữ H để đòi nợ, để xác định Dương Hoàng M có đồng phạm với D, L, T và V về hành vi “Bắt giữ người trái pháp luật” hay không. Bỡi lẽ, khi Trần Văn H đến công trình thì Dương Hoàng M không nói gì về việc H thi công công trình bị chậm trễ, mà để mặc cho Huỳnh Văn V và Mạnh tự do đóng cửa công trình và bắt giữ H. Khi Trần Văn H hỏi Minh lý do bị V bắt giữ thì Minh còn nói “Đây là thợ của D, anh cứ đứng yên đó cho tôi”. Mặt khác, sau khi Công an Phường 3 đến giải quyết, xác định đây là việc dân sự, nhưng sau khi Công an ra về thì Minh cũng để mặc cho Nguyễn Hoàng D, Lê Thị T và Mai Hồng L tự do đánh H và giữ H tại đây cho đến khi H tự trốn thoát ra khỏi công trình.
(ii) Theo lời khai của ông Lê Bật Cường tại Cơ quan điều tra (BL 209, 210) thì ông biết các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Mai Hồng L và Lê Thị T đưa Trần Văn H về giữ tại căn nhà số A ấp T, xã B, huyện H là nơi mà ông đang cư trú, để gọi gia đình H trả tiền nợ cho D và L. Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn H đã khai: Trong thời gian bị giữ tại căn nhà trên thì những người tham gia canh giữ H gồm có Mai Hồng L, Lê Thị T và ông Lê Bật C (BL từ số 163 đến số 165), nhưng Cơ quan điều tra không thu thập chứng cứ để xác định căn nhà số A ấp T, xã B, huyện H do ông C hay ai đứng ra thuê và không tiến hành đối chất giữa bị hại với ông Lê Bật C về việc ông C có hành vi tham gia canh giữ H tại đây hay không.
(iii) Căn cứ lời khai của Trần Văn H tại Cơ quan điều tra (BL số 165) và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định: Lúc bị bắt giữ tại công trình số M đường P, quận G thì bị cáo Lê Thị T có hành vi giựt lấy chiếc điện thoại của H mang về nhà cất giữ. Sau khi vụ án được phát hiện thì Cơ quan điều tra mới yêu cầu bị cáo T giao nộp chiếc điện thoại mà bị cáo đã giựt lấy của H cho Công an xử lý. Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi đối chất với Trần Văn H thì bị cáo Lê Thị T cũng thừa nhận đã có hành vi giựt lấy chiếc điện thoại của H trong lúc H bị D, L và V bắt giữ tại công trình và đem chiếc điện thoại về nhà cất giữ. Hành vi trên của bị cáo Lê Thị T và đồng phạm có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản”, đối với chiếc điện thoại của H, nhưng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp sơ thẩm không điều tra dấu hiệu phạm tội trên là bỏ lọt hành vi phạm tội.
Như vậy cấp sơ thẩm chưa điều tra, kết luận dấu hiệu phạm tội của Dương Hoàng M, Lê Bật C và bỏ lọt hành vi của các bị cáo cướp chiếc điện thoại của bị hại như đã nêu tại phần [2]. Do đó, căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án.