Nội dung hủy án:
(i) Về thủ tục tố tụng: Trong vụ án này, anh Trịnh Xuân T5 là người được anh Thanh H2 điện hỏi vay 60.000.000 đồng để chuyển tiền cho bị cáo H2 nhưng anh T5 nói không đủ và có mang 20.000.000 đồng tiền mặt nhờ anh Mai Văn S1 chuyển tiền vào số tài khoản của bị cáo H2. Như vậy cần xác định tư cách tham gia tố tụng của anh T5 và anh S1 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định tại Điều 65 BLTTHS. Việc cấp sơ thẩm xác định ảnh T5, anh S1 là người làm chứng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh T5 và anh S1.
(ii) Chưa tiến hành đối chất cụ thể: Tại phiên toà phúc thẩm, gia đình bị cáo Nguyễn Văn H1 có xuất trình đoạn video clip có hình ảnh bị cáo H1 và anh Thanh H2 bắt tay nhau, thoả thuận về việc anh Thanh H2 đồng ý nhận lại hàng và trả lại tiền cho bị cáo H2 và bị cáo C. Tuy nhiên nội dung này không phù hợp với lời khai của anh Thanh H2, theo các bị cáo khai đã đề nghị Điều tra viên Thân Văn M1 cho đối chất với anh Thanh H2 nhiều lần nhưng không được đối chất. Tại phiên toà phúc thẩm Điều tra viên Thân Văn M1 trình bày do anh Thanh H2 vắng mặt tại địa phương, không đến làm việc nên chưa tiến hành đối chất được. Như vậy quá trình điều tra có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi lời khai của bị cáo, bị hại có mâu thuẫn mà chưa tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 189 BLTTHS.
(iii) Tại phiên toà phúc thẩm, gia đình các bị cáo xuất trình đoạn video clip có hình ảnh theo các bị cáo trình bày là tại phòng làm việc của Công an xã P, huyện Q (nay là phường P, thị xã Q), tỉnh Bắc Ninh, tại đây các bị cáo được cán bộ Công an làm việc, tiến hành ghi lời khai, bản thân các bị cáo tự viết tường trình. Theo bị cáo H2 trình bày khi bị cáo đang viết tường trình thì nhận được số tiền 20.000.000 đồng từ tài khoản của anh Mai Văn S1 chuyển đến, nghĩ là tiền của người nhà anh Thanh H2 chuyển đến nên bị cáo ghi cả thời điểm được nhận tiền và số tiền nhận vào trong tường trình. Tuy nhiên, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện V chưa tiến hành thu thập những tài liệu ban đầu này tại Công an xã P, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh là không đầy đủ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
(iv) Bị cáo C có mặt khi bị cáo H2 và C2 dẫn anh Thanh H2 đi ra gần đến đoạn đường gom, việc bị cáo H2 tấn công anh Thanh H2 như thế nào bị cáo C không biết, có hay không hành vi của bị cáo C dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản của bị cáo C chưa được làm rõ. Các bị cáo khai anh Thanh H2 đề nghị giải quyết tình cảm, đồng ý tự nguyện nhận lại hàng, trả lại tiền cho các bị cáo nên không có việc đe dọa ép buộc, chiếm đoạt tài sản của bị hại. Mặt khác các bị cáo khai không có sự bàn bạc yêu cầu bị hại trả bao nhiêu tiền, chỉ mong muốn lấy lại số tiền của cá nhân mình. Số tiền này cộng lại là 64,5 triệu đồng, không có sự thỏa thuận làm tròn 60 triệu đồng. Vì vậy cần điều tra xác minh làm rõ lại có sự thỏa thuận dân sự giữa các bị cáo và bị hại hay không? Xác định hành vi của các bị cáo là thống nhất ý chí hay độc lập trong việc chiếm đoạt tài sản của bị hại? Xác định rõ số tiền từng bị cáo chiếm đoạt của bị hại?
(v) Có dấu hiện bỏ lọt tội phạm: Ngoài ra, hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn H1, Phan Văn C và anh Phan Huy C2 còn xâm phạm đến quyền tự do về thân thể của bị hại là anh Nguyễn Thanh H2 được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo và anh Phan Huy C2 có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của Nguyễn Văn H1, Phan Văn C có dấu hiệu phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự; hành vi của Phan Huy C2 có dấu hiệu phạm tội “Bắt người trái pháp luật” quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng huyện V không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Nguyễn Văn H1, Phan Văn C và Phan Huy C2 theo tội danh nêu trên là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
(vi) Hành vi của anh Nguyễn Thanh H2 bán linh kiện điện tử cho các bị cáo, có hành vi đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt tài sản của các bị cáo hay không chưa được làm rõ, có dấu hiệu về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.