Nội dung sửa án:
Đối với yêu cầu hủy một phần Quyết định số 8516/QĐ –UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố B về việc Phê duyệt giá đất để tính tiền bồi thường đường H đoạn đường từ ngã 6 đến đường Đ: trên cơ sở Quyết định số 22/2020/QĐ-UBND ngày 03/7/2020 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, UBND thành phố B phê đã duyệt giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường về đất cũng như việc xây dựng giá đất để giao đất tái định cư; giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá cho các hộ trong năm 2022. Tuy nhiên, giá đất tại khu vực trung tâm đường H đoạn từ ngã sáu trung tâm đến đường Đ giá đất tính để bồi thường là 33.993.000 đồng/m2. Ông P cho rằng Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành giá đất bồi thường không phù hợp với giá đất thực tế tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường và không phù hợp với giá đất tái định cư; bởi vì ngay khu vực bên cạnh cùng là khu vực trung tâm của thành phố, bề rộng mặt đường như nhau nhưng đường L đoạn từ đường T đến đường L và một số tuyến đường khác giá đất được tính là 64.000.000 đồng/m2 , chênh lệch quá lớn, thấp hơn gần gấp đôi, gây thiệt hại cho gia đình ông. Tại phiên toà ông P cung cấp cho Hội đồng xét xử Chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH T12 ngày 09/8/2023 thì giá đất tại khu vực nhà ông P được xác định là 58.700.041 đồng/m2. Xét thấy, tuy Chứng thư thẩm định giá ngày 09/8/2023 không đảm bảo đầy đủ về tính pháp lý nhưng phần nào đó cũng là cơ sở để xem xét, so sánh với giá đất bồi thường cho gia đình ông P là 33.993.000 đồng/m2 có sự chênh lệch quá nhiều.
Do đó, có cơ sở để xác định giá đất tại khu vực đường H đoạn từ ngã sáu trung tâm đến đường Đ giá đất UBND thành phố Buôn Ma Thuột căn cứ vào giá đất do UBND tỉnh Đ quy định để tính bồi thường cho ông P không phù hợp với thực tế.