Nội dung sửa án:
(i) Ngoài ra, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Trần Thị H5 được ký kết ngày 30-8-2003; trong khi đó, bà Trần Thị Mai L1 ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Phan Thị N ngày 27-7-2001, nhưng tứ cận thể hiện tại Hợp đồng chuyển nhượng số 67/CN ngày 27-7-2001, giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N lại ghi là phía Nam giáp đất bà Trần Thị H5 là không đúng, vì lúc đó bà H5 chưa nhận chuyển nhượng đất (nhận chuyển nhượng sau 02 năm).
(ii) Về lời khai xác nhận của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Phạm Thị H4 xác nhận: Giấy CNQSDĐ cấp cho bà không đúng với vị trí như hợp đồng chuyển nhượng giữa bà với bà Trần Thị Mai L1. Ngày 12-01-2004, bà có ký tứ cận cho ông Lê Hồng H giáp đất của bà là lô thứ 2 (tức là số thửa 5-1) từ Quốc lộ B (tức là đường D) vào trong. Bà H4 khẳng định chưa bao giờ ký giáp ranh cho bà Phan Thị N và không biết bà N là ai.
(iii) Tại Văn bản số 2113/CV-UBND ngày 31-5-2022 của UBND thành phố K thể hiện: Đối với vị trí đất ông Lê Hồng H sử dụng, căn cứ hồ sơ chuyển nhượng giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N và giấy tờ sang nhượng giữa bà L1 với ông Lê Hồng H (lưu giữ tại Chi nhánh Văn phòng Đ) thì ông H và bà N đều được bà L1 chuyển nhượng cùng vị trí đất. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp xuất phát từ việc bà L1 chỉ có 46 m (chia thành 9 lô), nhưng đã chuyển nhượng 51 m (10 lô). Khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác định tứ cận, vị trí thửa đất không đúng so với thực địa; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, UBND phường T không căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế để tách thửa, mà chỉ căn cứ vào tứ cận, vị trí theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tham mưu cho UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L chồng lên đất của gia đình ông Lê Hồng H đang ở.
(iv) Tại phiên tòa hành chính sơ thẩm ngày 29-9-2022, người bị kiện là UBND thành phố K xác nhận: Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N là thửa số 5-1, nhưng khi cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N ghi là thửa số 5-7 là không đúng, do đó Giấy CNQSDĐ cấp cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L cũng không đúng. Vì vậy, ông Lê Hồng H khởi kiện yêu cầu huỷ Giấy CNQSDĐ do UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum đã cấp cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L là có cơ sở.
(v) Tại Văn bản số 1675/CV-VPĐKĐĐ ngày 18-10-2022, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố K xác định: Phía Nam thửa đất của bà Phạm Thị H4 giáp đất bà Phạm Thị H7, phía Bắc giáp đất bà Trần Thị Mai L1 (lúc này bà L1 chưa chuyển nhượng cho ông H). Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4 ngày 20-8-2003, thể hiện thửa đất 5-0, tờ bản đồ số 6, tính từ đường D vào (tức là lô số 1), nhưng khi lập Hồ sơ trích lục ngày 19-02-2003, thì đất của bà H4 thể hiện là thửa đất 5-3 (tức là lô số 4 tính từ đường D vào); nguyên nhân là do khi lập hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ cho bà H4 không đúng với vị trí trong hợp đồng chuyển nhượng và Biên bản xác minh tứ cận ngày 20- 8-2003, có xác nhận của UBND phường T.
(vi) Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10-02-2023, đại diện Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Kon Tum trình bày: UBND thành phố K cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N và bà Phạm Thị H4 không đúng vị trí lô đất theo biên bản xác minh tứ cận đã được UBND phường xác nhận và sự thỏa thuận của các đương sự trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N; giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4, do đó ông Lê Hồng H khởi kiện yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ đã cấp cho bà Phan Thị N, sau đó cấp cho ông Lương Thế K và bà Nguyễn Thị Kim L là có cơ sở.
(vii) Mặc dù, thửa đất của ông Lê Hồng H chưa được cấp Giấy CNQSDĐ, nhưng với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án; nội dung trình bày của người khởi kiện, người bị kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định lô đất của ông Lê Hồng H nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Mai L1 là lô đất thứ 2 từ đường D vào, phía Nam giáp đất bà Phạm Thị H4 (tức là giáp lô đất thứ nhất từ đường D vào), nhưng UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum đã cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N, sau đó bà N chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Lương Thế K là cấp vào diện tích đất của gia đình ông Lê Hồng H đã nhận chuyển nhượng và đang ở ổn định. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm cho rằng “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với ông Lê Hồng H chưa làm thủ tục đăng ký tại Văn phòng Đăng ký đất đai, nên chưa có hiệu lực. Cho đến thời điểm hiện tại, hợp đồng chuyển nhượng đối với lô đất nêu trên vẫn chưa có hiệu lực, chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ, nên ông Lê Hồng H cũng không có quyền sử dụng đối với lô đất này, nhưng vào năm 2011, ông H đã xây dựng nhà ở là vi phạm pháp luật. Trong khi đó, bà Phan Thị N và vợ chồng ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ…” là chưa đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện; không đúng quy định tại khoản 1 Điều 108 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
(viii) Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào Giấy CNQSDĐ số phát hành Đ 507433, số vào sổ cấp GCN 00003, do UBND thị xã K cấp ngày 07-4-2004 cấp cho bà Phạm Thị H4 (Giấy chứng nhận này, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã xác nhận là cấp sai vị trí thửa đất) để làm căn cứ xác định vị trí lô đất của ông Phạm Hồng H8 giáp đất bà Phạm Thị H4 về phía Bắc là không có cơ sở, vì theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20-8-2003, giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4, thì thửa đất của bà H4 là thửa 5-0 (tức là lô đất số 1) tính từ đường D vào, nhưng UBND thành phố K đã cấp Giấy CNQSDĐ sai vị trí cho bà H4 là thửa 5- 3 (tức là là lô thứ 4); nội dung này đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố K trả lời tại Văn bản số 1675/CV-VPĐKĐĐ ngày 18-10-2022. Bà Trần Thị Mai L1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị N ngày 27- 7-2001, nhưng đến ngày 23-7-2023, bà L1 mới được UBND thị xã K cấp Giấy CNQSDĐ và ngày 12-01-2004, bà L1 chuyển nhượng đất cho ông Lê Hồng H (ông H nhận chuyển nhượng đất từ bà L1 sau bà N), nhưng Toà án cấp sơ thẩm lại nhận định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N là hợp pháp, bởi khi chuyển nhượng và tại thời điểm bà N làm Giấy CNQSDĐ thì bà L1 đã có Giấy CNQSDĐ do UBND thị xã K cấp đứng tên bà L1” là không có căn cứ.