Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2024/DS-PT ngày 22/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do ông Đặng M2 (chồng bà Đ) chết ngày 09/10/2014, thế nhưng tại phần Quyết định của bản án chỉ buộc bà Hà Thị Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy cho đất ngày 20/02/2001 trong khi người thừa kế của ông M2 còn có ông Đặng Thành D, bà Đặng Thị Tuyết S, bà Đặng Thị Tuyết L, bà Đặng Thị Tuyết N, ông Đặng Thành T, bà Đặng Thị Tuyết M, bà Đặng Thành S1, bà Đặng Thị Tuyết H1, bà Đặng Thị Tuyết N1, bà Đặng Thị Tuyết V, ông Đặng Thành T1 và cụ Nguyễn Thị Đ1 (mẹ đẻ ông M2). Trong quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải tiến hành lấy lời khai của ông H, bà L để xác định yêu cầu phản tố của bị đơn có buộc bà Hà Thị Đ và tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án phải tiếp tục thực hiện hợp đồng hay không. Thế nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện việc lấy lời khai của ông H, bà L về vấn đề này nên không xác định được cụ thể yêu cầu phản tố của bị đơn. Từ đó dẫn đến trong phần quyết định của bản án sơ thẩm chỉ tuyên buộc bà Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng theo giấy cho đất ngày 20/02/2001 là chưa đúng. Trường hợp này được coi là việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được bởi vì gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự, làm cho họ mất quyền kháng cáo, đồng thời vi phạm Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Theo quy định, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại vụ án đối với những vấn đề mà Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết trong khi Tòa án cấp sơ thẩm không xác định rõ yêu cầu phản tố của bị đơn và chỉ tuyên buộc bà Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng là thiếu sót.

(ii) Về nội dung: Diện tích đất tranh chấp qua đo đạc thực tế 683,6m2 thuộc thửa đất số 189, tờ bản đồ số 11 tại địa chỉ thôn I xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Bà Đ cho rằng diện tích đất tranh chấp này do vợ chồng bà cho ông H, bà L mượn để làm sân phơi cà phê; còn ông H, bà L cho rằng diện tích đất này do vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ ông M2, bà Đ. Khi nhận chuyển nhượng thửa đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên vợ chồng ông M2, bà Đ đã ký vào“Giấy cho đất’’đề ngày 20/02/2001, giấy này do ông H là người viết, khi viết đã viết lùi lại thời gian, nội dung cha mẹ cho con gái (bà L) để miễn thuế; thực tế văn bản được viết vào năm 2010 và ông H đã thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng cho ông M2, bà Đ. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ, xác định bản chất của Giấy cho đất là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, bà L. Tuy nhiên, thấy rằng chưa có đầy đủ căn cứ để xác định văn bản này xuất phát từ việc ông H, bà L nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông M2, bà Đ bởi lẽ sự việc này không được bà Đ thừa nhận. Mặt khác, văn bản không thể hiện tứ cận thửa đất, không ghi số tờ bản đồ, không ghi giá chuyển nhượng mà chỉ thể hiện việc ông M2, bà Đ cho con gái Đặng Thị Tuyết L thửa đất 700m2 và không có tên ông Lê Bá H. Như vậy, khi giải quyết lại vụ án Tòa án cấp sơ thẩm cần xác định rõ những tình tiết nêu trên để đánh giá chứng cứ cho phù hợp với nội dung tranh chấp vụ án.

Từ những nhận định và phân tích trên, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết lại vụ án theo quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Góp ý