Nội dung sửa án:
Xét lời trình bày của chị L: phần đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Thị Đ và cụ Phạm Văn Y (cha mẹ chị) khai phá nhưng vào năm nào thì anh, chị không nhớ, cụ Y, cụ Đ chỉ làm được 01 vụ lúa/năm. Đến năm 1992, sau khi ông Y chết, cụ Đ kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp GCNQSDĐ. Đến năm 1995, cụ Đ tặng cho vợ chồng anh, chị toàn bộ diện tích đất bà Đ được cấp giấy và anh, chị sản xuất lúa. Năm 1996, lúa bị nước lụt nên toàn bộ diện tích đất ruộng anh, chị sản xuất bị hư. Năm 1997, anh chị tiếp tục sản xuất thêm 01 vụ lúa nhưng bị chuột ăn, sau đó anh chị ngưng không sản xuất lúa nữa. Lời trình bày của chị L mâu thuẫn với biên bản lấy lời khai ngày 13/12/2019 (Bút lục 74) chị L khai: “Thực tế phần đất tranh chấp vợ chồng tôi không biết nằm trong giấy đất của vợ chồng tôi đứng tên nên trước thời điểm xảy ra tranh chấp ai sản xuất vợ chồng tôi không ngăn cản vì không biết đất của vợ chồng tôi. Đến thời điểm chị L yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – Chi nhánh Châu Thành đo đạc và phát hiện đất chị L chuyển nhượng nằm trong 02 giấy CNQSDĐ do vợ chồng tôi đứng tên”. Điều đó cho thấy, đất này không phải của gia đình chị L, vì trước khi xảy ra tranh chấp gia đình chị L không có ai sử dụng (mặc dù chị L có đất liền kề với đất tranh chấp), mà đất này do ông Ch canh tác, sau đó là ông V và cuối cùng từ năm 2014 đến nay người sử dụng là vợ chồng chị L. Ngoài ra, khi cấp GCNQSDĐ cho cụ Đ vào năm 1992 cơ quan tham mưu cho UBND huyện không xem xét thực địa dẫn đến cấp đất sai thửa. Toà án có văn bản yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – Chi nhánh huyện Châu Thành cung cấp hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ Đ nhưng được trả lời hồ sơ thất lạc, trong hồ sơ đăng ký chỉ có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất (bản pho to) do chị L nộp. Cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào GCNQSDĐ chị L, anh L được cấp đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L và chấp nhận yêu cầu phản tố của chị L anh L đối với chị L mà chưa xem xét quá trình sử dụng đất, người trực tiếp sử dụng đất là chưa đánh giá toàn diện về chứng cứ. Qua xem xét quá trình sử dụng đất nhận thấy phía nguyên đơn đã sử dụng đất này liên tục đến năm 2019, chính chị L là người thông báo cho chị L đất cấp sai thửa thì chị L mới biết, còn từ năm 2019 trở về trước chị L không có tranh chấp đất này. Do đó, chị L có đủ điều kiện để được Nhà nước xem xét cấp GCNQSDĐ theo Điều 101 của Luật Đất đai và các Điều 158, 161 của Bộ luật dân sự. Chị L, anh L được cấp GCNQSDĐ không đúng vị trí, không đúng đối tượng theo quy định tại điểm c Điều 64, điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nên phải có nghĩa vụ trả lại quyền sử dụng đất diện tích 5.163,3 m2 thuộc các thửa 1474, 1475 và một phần của các thửa 1064, 1065, 1066, 1067, 1473, 1476, 1477, tờ bản đồ số 5/299 (tương ứng một phần của thửa 180, tờ bản đồ 13 theo bản đồ địa chính VN 2000) đất toạ lạc tại ấp X M, xã TB, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận kháng cáo, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, không chấp nhận yêu cầu phán tố của chị L, anh Lẵng; sửa án sơ thẩm.