
Xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi tội phạm được xóa bỏ và xử lý thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã được quy định thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Việc xử lý thông tin trong lý lịch tư pháp được thực hiện ra sao trong các trường hợp tội phạm bị xóa bỏ theo quy định của Bộ luật Hình sự cũng như trong trường hợp cá nhân bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định pháp luật?
MỤC LỤC
1. Xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi tội phạm được xóa bỏ được quy định thực hiện như thế nào?
Trả lời:
1. Xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi tội phạm được xóa bỏ được quy định thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo Điều 35 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 quy định về việc xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi tội phạm được xóa bỏ như sau:
“Điều 35. Xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi tội phạm được xóa bỏ
Trường hợp người bị kết án về một tội nhưng tội phạm này được xoá bỏ theo quy định của Bộ luật Hình sự thì thông tin về tội đó được xóa bỏ trong lý lịch tư pháp của người đó.”
Từ quy định trên, có thể thấy việc xử lý thông tin lý lịch tư pháp trong trường hợp tội phạm bị xóa bỏ là một cơ chế pháp lý cần thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan và hợp pháp của dữ liệu lý lịch tư pháp. Khi Bộ luật Hình sự quy định về việc xóa bỏ một tội danh tức là tội phạm đó không còn được coi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xóa thông tin về tội danh tương ứng trong lý lịch tư pháp là hệ quả tất yếu, phản ánh nguyên tắc thượng tôn pháp luật và tính cập nhật, kịp thời của hệ thống lý lịch tư pháp quốc gia.
Quy định này đồng thời thể hiện sự tôn trọng quyền lợi hợp pháp của cá nhân, đảm bảo rằng công dân không bị lưu giữ thông tin không còn giá trị pháp lý trong lý lịch tư pháp, từ đó góp phần bảo vệ quyền nhân thân, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng và tham gia các quan hệ xã hội một cách bình đẳng.
2. Xử lý thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã được quy định thực hiện như thế nào?
Việc xử lý thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã được quy định tại Điều 14 Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quy định như sau:
“Điều 14. Xử lý thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
1. Sở Tư pháp thực hiện tiếp nhận, cung cấp thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Luật Lý lịch tư pháp, Điều 11, Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP. Trường hợp người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã là người nước ngoài và không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Sở Tư pháp gửi thông tin lý lịch tư pháp của người đó cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
2. Sở Tư pháp thực hiện lập lý lịch tư pháp của người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Lý lịch tư pháp, Điều 14 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP. Trường hợp người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã là người nước ngoài và không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện lập lý lịch tư pháp trên cơ sở quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án.
3. Trường hợp người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã đã có lý lịch tư pháp thì Sở Tư pháp bổ sung thông tin cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã vào lý lịch tư pháp của người đó theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Lý lịch tư pháp.
4. Trường hợp hết thời hạn không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án thì thông tin về việc cá nhân không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong lý lịch tư pháp bằng giấy của người đó được gạch chéo và ghi rõ “đã hết thời hạn cấm”; đối với dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử thì được xóa bỏ và ghi rõ “đã hết thời hạn cấm”.”
Dẫn chiếu đến các quy định tại tại khoản 3 Điều 37, khoản 1 và 2 Điều 38 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009; Điều 11 và Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Điều 14 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp quy định như sau:
“Điều 37. Cung cấp, tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
…
3. Sở Tư pháp có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp.
Trường hợp người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã thường trú ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác, Sở Tư pháp gửi thông tin lý lịch tư pháp của người đó cho Sở Tư pháp nơi người đó thường trú trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông tin; trường hợp không xác định được nơi thường trú của người đó thì gửi thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp nơi người đó tạm trú.
Việc tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã phải được ghi vào sổ tiếp nhận theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.”
“Điều 38. Lập lý lịch tư pháp và cập nhật thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
1. Trường hợp người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã chưa có lý lịch tư pháp thì Sở Tư pháp nơi người đó thường trú hoặc tạm trú lập lý lịch tư pháp trên cơ sở quyết định tuyên bố phá sản của Toà án với các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 37 của Luật này.
lý lịch tư pháp được lập thành hai bản, một bản do Sở Tư pháp quản lý, một bản được chuyển đến Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
2. Trường hợp người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá sản đã có lý lịch tư pháp thì Sở Tư pháp ghi vào lý lịch tư pháp của người đó theo quyết định của Tòa án và gửi thông tin đó cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Việc cập nhật thông tin bổ sung được thực hiện theo quy định tại Điều 34 của Luật này.”
“Điều 11. Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản công nghiệp, hợp tác xã trong đó có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiệm vụ gửi quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực pháp luật cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.”
“Điều 14. Thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp
Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở quyết định tuyên bố phá sản hoặc trích lục quyết định tuyên bố phá sản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật.” (Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp)
“Điều 14. Thẩm quyền và nội dung lập lý lịch tư pháp của người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
1. Sở Tư pháp, nơi người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã thường trú, lập lý lịch tư pháp của người đó; trường hợp người đó không có nơi thường trú thì Sở Tư pháp, nơi người đó tạm trú, lập lý lịch tư pháp.
2. lý lịch tư pháp được lập riêng cho từng người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã với các nội dung sau đây:
a) Họ, tên, giới tính, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, quốc tịch, nơi thường trú, tạm trú của người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã;
b) Chức vụ bị cấm đảm nhiệm, thời hạn không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Số quyết định, ngày tháng năm của quyết định, Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản.” (Điều 14 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp)
Từ các quy định trên, có thể thấy rằng việc xử lý thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong hệ thống lý lịch tư pháp được thiết lập theo một quy trình chặt chẽ, phân định rõ trách nhiệm giữa Sở Tư pháp và Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
Cụ thể, việc tiếp nhận, lập, bổ sung và xử lý thông tin cấm được thực hiện dựa trên các căn cứ pháp lý từ quyết định của Tòa án, đồng thời có sự phân biệt đối với trường hợp người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam, phản ánh tính toàn diện và khả năng bao quát đối tượng áp dụng của hệ thống lý lịch tư pháp.
Ngoài ra, cơ chế ghi chú "đã hết thời hạn cấm" trên lý lịch tư pháp bằng giấy và việc xóa bỏ thông tin tương ứng trong dữ liệu điện tử thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng quyền nhân thân và tính kịp thời trong cập nhật thông tin pháp lý.
Như vậy, tất cả những quy định này không chỉ bảo đảm sự minh bạch, thống nhất trong quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp mà còn góp phần ngăn ngừa việc lợi dụng quyền lập doanh nghiệp, giữ chức vụ quản lý để tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm, đồng thời bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.
Trân trọng./.