
Vợ hoặc chồng bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc đang mắc bệnh nặng thì người còn lại có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi có người thân không may bị tai nạn lao động nghiêm trọng, hiện đang điều trị dài hạn và không còn khả năng tự chăm sóc bản thân. Trong hoàn cảnh đó, vợ của người này cảm thấy cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục và muốn ly hôn. Vậy, nếu vợ hoặc chồng bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc đang mắc bệnh nặng thì người còn lại có được quyền yêu cầu ly hôn không?
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Ly hôn là gì?
Căn cứ khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
14. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.”
Như vậy, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ và chồng, được thực hiện dựa trên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là cơ chế pháp lý nhằm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau trong khuôn khổ hôn nhân. Việc ly hôn chỉ có giá trị khi được Tòa án công nhận và ra quyết định chính thức, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, nhất là quyền lợi của con cái nếu có.
2. Vợ hoặc chồng bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc đang mắc bệnh nặng thì người còn lại có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Khi vợ hoặc chồng bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc đang mắc bệnh nặng, có thể xảy ra hai trường hợp: Nếu tình trạng sức khỏe nghiêm trọng đến mức người đó không còn khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì có thể bị Tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự hoặc nếu người đó vẫn còn khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì không bị coi là mất năng lực hành vi dân sự.
* Trường hợp 1: Tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự
Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Đồng thời, theo khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
…
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 88. Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự
1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.”
Theo đó, khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 87. Những trường hợp không được làm người đại diện
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.
Như vậy, theo cácquy định trên, vợ, chồng hoặc cả hai đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Trong trường hợp một bên bị mất năng lực hành vi dân sự, thông thường vợ hoặc chồng sẽ là người đại diện. Tuy nhiên, nếu người vợ hoặc chồng đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án sẽ chỉ định một người khác làm đại diện theo pháp luật để tham gia giải quyết ly hôn. Do đó, ngay cả khi một bên bị mất năng lực hành vi dân sự, bên còn lại vẫn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
* Trường hợp 2: Không bị coi là mất năng lực hành vi dân sự
Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Đồng thời, theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Như vậy, nếu vợ hoặc chồng không bị coi là mất năng lực hành vi dân sự thì người còn lại có quyền yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Bên cạnh đó, nếu vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được trong thời gian trước đó.
Trân trọng./.