Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai liên quan đến việc không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

MỤC LỤC

1. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2018/HC-PT ngày 28/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính

2. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

3. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

4. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2024/HC-PT ngày 06/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai

5. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai

6. Bản án hành chính phúc thẩm số 04/2023/HC-PT ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

7. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2024/HC-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

8. Bản án hành chính phúc thẩm số 03/2023/HC-PT ngày 05/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại

9. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

10. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại

 

1. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2018/HC-PT ngày 28/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính

Nội dung hủy án:

(i) Khi tiến hành tố tụng, tòa án sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật của vụ án là khiếu kiện quyết định hành chính. Khi xem xét đơn khởi kiện của bà T thấy rằng, ngoài khiếu kiện quyết định hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y thì bà T còn yêu cầu Tòa án xem xét hành vi của Phòng TN&MT huyện Y về việc không làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bà; xem xét bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ Phòng TN&MT huyện Y và cán bộ xã P. Như vậy việc xác định quan hệ tranh chấp của tòa án sơ thẩm là thiếu sót. Như đã phân tích thì bà T khởi kiện và yêu cầu Tòa án xem xét đối với quyết định hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y, hành vi hành chính của Phòng TN&MT huyện Y, hành vi hành chính của UBND xã P, như vậy cần phải xác định những cơ quan này là người bị kiện, tuy nhiên tòa án sơ thẩm chỉ xác định Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y và xác định Phòng TN&MT huyện Y, UBND xã P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy việc xác định tư cách tố tụng đối với các đương sự không được tòa án sơ thẩm thực hiện chính xác, như vậy ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng.

(ii) Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì Phòng TN&MT là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy Phòng TN&MT huyện Y không có tư cách tham gia tố tụng, khi bà T khởi kiện cần xác định UBND huyện Y là người bị kiện mới chính xác. Ngoài ra, theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc quy định về quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thì các đơn vị này có tư cách pháp nhân, tuy nhiên tại Quyết định số 09/2018/QĐ-UBND ngày 27/4/2018 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc sửa đổi bổ sung Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND thì các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉ là đơn vị trực thuộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của Luật tố tụng hành chính thì khiếu kiện của bà T không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y.

(iii) Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 31/QĐ-VPĐKĐĐ, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, ngày 5/6/2017 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định số 10/QĐ-VPĐKĐĐ về thu hồi và hủy bỏ quyết định nêu trên. Như vậy, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không còn nhưng bà T vẫn yêu cầu Tòa án hủy quyết định trên là vô lý và không phù hợp với pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu của bà T. Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và quyết định như nêu trên là không đúng với quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao và quy định tại Khoản 1 Điều 193 của Luật TTHC năm 2015.

(iv) Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà T, theo quy định tại Khoản 8 Điều 13 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009; Khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 18/2015/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 14/12/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ, yêu cầu của bà T thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính. Do đó, Tòa án cần phải đánh giá tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện, xác định lỗi của các bên và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra để có cơ sở xem xét, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét các vấn đề nêu trên nhưng vẫn bác đơn khởi kiện của bà T với lý do các cơ quan chuyên môn của UBND huyện Y không có lỗi là chưa xem xét khách quan, toàn diện các vấn đề của vụ án, vi phạm quy định tại Điều 95, 194 Luật tố tụng hành chính.

(v) Ngoài ra tòa án sơ thẩm giải quyết về án phí không đúng quy định của pháp luật bởi lẽ: Yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất của bà T thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định tại Khoản 8 Điều 13 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Do đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 64 của Luật này và điểm f Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số6 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà T là người bị hại nên không phải chịu án phí. Cụ thể:

Tại Khoản 1 Điều 64 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định:

“1. Khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Nhà nước theo quy định của Luật này, người bị thiệt hại không phải nộp lệ phí, án phí và các loại phí khác”.

Tại điểm f Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “f. Các trường hợp khác không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí mà pháp luật có quy định”.

2. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung hủy án 

(i) Mặc dù Đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q có tiêu đề là đơn khiếu nại nhưng đơn không thể hiện tên cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại, nội dung khiếu nại; nội dung đơn chỉ là ông Q yêu cầu Chủ tịch UBND xã M xem xét trường hợp của ông có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 76 hay không, nếu đủ điều kiện thì đề nghị hướng dẫn ông Q lập thủ tục để ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định, nếu không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trả lời bằng văn bản cho ông Q biết.

Đối chiếu hình thức và nội dung đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q với các quy định nói trên thì đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q không phải là đơn khiếu nại nên không thuộc trường hợp phải thụ lý, giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hình thức, trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 vi phạm quy định của Luật khiếu nại là không phù hợp với nhận định nói trên; đề nghị Tòa án nhân dân huyện P rút kinh nghiệm trong những lần xét xử tiếp theo.

(ii) Theo khoản 2 Điều 105 của Luật Đất đai năm 2013 “Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.” và điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu và đăng ký bổ sung đối với tài sản gắn liền với đất “Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đề nghị đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như sau: a) Trường hợp đăng ký đất đai thì xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch.”. Văn bản số 08 có nội dung là “Việc sử dụng đất của ông không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai” là không đúng quy định về thẩm quyền theo quy định nêu trên.

Mặc dù có sai sót trong việc nhận định trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử hủy Văn bản số 08 là phù hợp với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị về phần quyết định huỷ Văn bản số 08 của bản án hành chính sơ thẩm nên phần quyết định nói trên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

(iii) Từ những căn cứ nói trên có cơ sở để xác định tại thời điểm ông Q nộp đơn khởi kiện, chưa phát sinh hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của UBND xã Mỹ Q về việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi xác nhận nguồn gốc đất, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông Q về việc yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông Q với quan hệ pháp luật là khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không phù hợp. Đáng lẽ ra, trong trường hợp này, Toà án cấp sơ thẩm phải đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Q theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 và điểm h khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính.

(iv) Mặc dù Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Q là hủy Văn bản số 08 và buộc UBND xã M phải xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN đối với thửa đất số 76 cho ông nhưng chỉ xác định người bị kiện là Chủ tịch UBND xã M là bỏ sót người tham gia tố tụng vì UBND xã M là cơ quan có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc đất.

(v) Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không đúng nên Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.

3. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung hủy án 

(i) Mặc dù Đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q có tiêu đề là đơn khiếu nại nhưng đơn không thể hiện tên cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại, nội dung khiếu nại; nội dung đơn chỉ là ông Q yêu cầu Chủ tịch UBND xã M xem xét trường hợp của ông có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 76 hay không, nếu đủ điều kiện thì đề nghị hướng dẫn ông Q lập thủ tục để ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định, nếu không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trả lời bằng văn bản cho ông Q biết.

Đối chiếu hình thức và nội dung đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q với các quy định nói trên thì đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q không phải là đơn khiếu nại nên không thuộc trường hợp phải thụ lý, giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hình thức, trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 vi phạm quy định của Luật khiếu nại là không phù hợp với nhận định nói trên; đề nghị Tòa án nhân dân huyện P rút kinh nghiệm trong những lần xét xử tiếp theo.

(ii) Theo khoản 2 Điều 105 của Luật Đất đai năm 2013 “Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.” và điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu và đăng ký bổ sung đối với tài sản gắn liền với đất “Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đề nghị đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như sau: a) Trường hợp đăng ký đất đai thì xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch.”. Văn bản số 08 có nội dung là “Việc sử dụng đất của ông không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai” là không đúng quy định về thẩm quyền theo quy định nêu trên.

Mặc dù có sai sót trong việc nhận định trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử hủy Văn bản số 08 là phù hợp với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị về phần quyết định huỷ Văn bản số 08 của bản án hành chính sơ thẩm nên phần quyết định nói trên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

(iii) Ngày 24/11/2022, ông Q có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc yêu cầu UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông theo quy định và sửa phần án phí hành chính sơ thẩm vì ông thuộc trường hợp được miễn án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Q có ý kiến rút một phần đơn khởi kiện về việc yêu cầu UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông theo quy định và rút toàn bộ kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của người bị kiện là ông Hồ Văn V – Phó Chủ tịch UBND xã M, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị Bích N và bà Nguyễn Thị P có ý kiến đồng ý chấp nhận việc rút đơn khởi kiện nói trên của ông Q.

Việc rút một phần đơn khởi kiện và rút toàn bộ kháng cáo nói trên của ông Q và việc người bị kiện đồng ý chấp nhận việc rút đơn một phần đơn khởi kiện của ông Q là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

(iv) Ông Dương Vinh Q sinh ngày 24/4/1960. Căn cứ quy định tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Q thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn tiền án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm.

Hoàn trả lại cho ông Q 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0008651 ngày 15/6/2022 và biên lai số 0008873 ngày 24/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bình Định.

(v) Căn cứ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3 và các điểm b, c khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính, ông Q có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông Q nhưng với điều kiện phải có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính phát sinh liên quan đến thẩm quyền xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất của UBND xã M và ông Q phải khiếu kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trên tại Tòa án.

Đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q không có nội dung khiếu nại hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của UBND xã Mỹ Q về việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi xác nhận nguồn gốc đất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai “Trường hợp đăng ký đất đai thì xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch” và trong hồ sơ vụ án cũng không thể hiện ông Q đã nộp hồ sơ theo quy định để làm thủ tục đăng ký cấp GCN tại thời điểm làm đơn khiếu nại ngày 17/01/2022.

Từ những căn cứ nói trên có cơ sở để xác định tại thời điểm ông Q nộp đơn khởi kiện, chưa phát sinh hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của UBND xã Mỹ Q về việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi xác nhận nguồn gốc đất, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông Q về việc yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông Q với quan hệ pháp luật là khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không phù hợp. Đáng lẽ ra, trong trường hợp này, Toà án cấp sơ thẩm phải đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Q theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 và điểm h khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính.

(vi) Mặc dù Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Q là hủy Văn bản số 08 và buộc UBND xã M phải xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN đối với thửa đất số 76 cho ông nhưng chỉ xác định người bị kiện là Chủ tịch UBND xã M là bỏ sót người tham gia tố tụng vì UBND xã M là cơ quan có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc đất.

(vii) Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không đúng nên Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.

4. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2024/HC-PT ngày 06/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai

Nội dung hủy án 

Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Ea Súp, xác nhận nội dung biến động về quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 245, không liên quan đến diện tích mà vợ chồng ông Ph, ông V đang sử dụng, nên vợ chồng ông Ph, bà L và ông V, không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy nội dung biến động về quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 245. Tòa án cấp sơ thẩm sơ thẩm không trả lại đơn khởi kiện mà thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi của ông Ph, bà L và ông V là trái với quy định của pháp luật, được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng Hành chính. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, cần hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, đối với yêu cầu khởi của ông Ph, bà L và ông V.

5. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai

Nội dung hủy án 

Xét yêu cầu của người khởi kiện đã khởi kiện đối với người bị kiện là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C thấy rằng. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai quy định “Văn phòng đăng ký đất đai có các chi nhánh tại các huyện, quận, xã...Chi nhánh Văn phòng Đ được thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Đ...” và tại khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/BTNMT – BNV – BTC cũng quy định “ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai các quận, huyện, thị xã là đơn vị hạch toán phụ thuộc”. Từ đó xác định thì Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C, tỉnh Hậu Giang không có tư cách pháp nhân mà trực thuộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh H nên việc đưa Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C tham gia tố tụng với tư cách là người bị kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A là không đúng (không đúng về xác định người bị kiện và thẩm quyền giải quyết). Đáng lẽ ra, trong trường hợp trên, Tòa án cấp sơ thẩm phải hướng dẫn đương sự xác định cho đúng người bị kiện và chuyển vụ án theo thẩm quyền về Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang giải quyết theo quy định tại Điều 34 của Luật tố tụng hành chính.

6. Bản án hành chính phúc thẩm số 04/2023/HC-PT ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án:

Ngày 12/4/2021, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lê Chí T. Từ đó đến nay Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ chưa thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận cho ông Lê Chí T là vi phạm thời hạn thực hiện thủ tục đăng ký đất đai như viện dẫn trên.

Do đó, ông Lê Chí T khởi kiện yêu cầu hủy thông báo số 419/TB-CNBMT đề ngày 26/4/2021 và công văn số 167/CNBMT-ĐKTK đề ngày 18/01/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Đ. Buộc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ tiếp tục thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 271, tờ bản đồ số 77, địa chỉ thửa đất: xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho ông Nguyễn Văn T1, bà Trần Thị T3 - người nhận chuyển nhượng thửa đất nêu trên của ông Lê Chí T là có căn cứ. Bản án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Chí T là không đúng quy định pháp luật.

7. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2024/HC-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án 

(i) Theo nội dung của Thông báo số 01/TB-UBND ngày 07/01/2022 và Thông báo số 162/TB-UBND ngày 30/11/2022 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân xã S, tuy nhiên việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S ký vào hai thông báo này nhưng không dưới hình thức thay mặt Ủy ban nhân dân xã S là không đúng quy định của pháp luật nhưng vấn đề này không ảnh hưởng đến bản chất nội dung của vụ án.

(ii) Đối chiếu với các quy định của pháp luật và hướng dẫn nêu trên đều quy định sau khi nhận hồ sơ đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì UBND cấp xã có trách nhiệm và thẩm quyền kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như: xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định 43 thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch; Niêm yết công khai kết quả kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện trạng, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và khu dân cư nơi có đất, tài sản gắn liền với đất trong thời hạn 15 ngày; xem xét giải quyết các ý kiến phản ánh về nội dung công khai và gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai. Nhưng UBND xã S sau khi nhận hồ sơ của ông Trương Hữu T lại không thực hiện trách nhiệm và thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật như đã viện dẫn trên mà ban hành ngay Thông báo số 01 chuyển trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trương Hữu T, với lý do đất ông Trương Hữu T yêu cầu cấp giấy chứng nhận là đất do UBND xã S quản lý và trực tiếp trả hồ sơ cho ông T.

Trong trường hợp này, lẽ ra sau khi UBND xã S thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình thì UBND xã S phải chuyển toàn bộ hồ sơ của ông Trương Hữu T lên Chi nhánh Văn phòng Đi để Chi nhánh thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình là kiểm tra hồ sơ đăng ký; xác minh thực địa trong trường hợp cần thiết; xác nhận đủ điều kiện hay không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vào đơn đăng ký của ông T. Trường hợp đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Chi nhánh Văn phòng Đi chuyển hồ sơ cho UBND huyện H; nếu không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chuyển hồ sơ để UBND xã S trả lại cho ông Trương Hữu T. Có như vậy thì hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T mới đảm bảo được tính khách quan, đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Việc UBND xã S không chuyển toàn bộ hồ sơ của ông Trương Hữu Tiên Chi nhánh Văn phòng Đ1 mà lại ban hành Thông báo số 01 trả lại đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T là trái pháp luật nên Thông báo số 162/TB-UBND ngày 30/11/2022 của Ủy ban nhân dân xã S và Quyết định số 39/UBND ngày 24/2/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S đều không có căn cứ nên cần tuyên hủy Thông báo số 01, Thông báo số 162 và Quyết định số 39 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính. Do đó, ông Trương Hữu T khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 39/UBND ngày 24/2/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S là có cơ sở chấp nhận.

(iii) Việc ông Trương Hữu T yêu cầu UBND xã S xác nhận nguồn gốc đất cho gia đình ông, đây thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của UBND xã S khi nhận hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trương Hữu T như đã nhận định ở trên.

Từ những nhận định trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T là chưa phù hợp. Nên kháng cáo của người khởi kiện cũng như ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T là có căn cứ nên được chấp nhận. 

8. Bản án hành chính phúc thẩm số 03/2023/HC-PT ngày 05/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại

Nội dung sửa án 

(i) Về việc xác định đối tượng bị khởi kiện và loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính: Ngày 10/10/2020, ông Nguyễn Văn Nh có đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1.230m2 thuộc thửa 625, tờ bản đồ 21 (thực tế là thửa 624, tờ bản đồ 21). Ngày 04/11/2020, Ủy ban nhân dân phường V ban hành Văn bản số 1125/UBND-TD về việc trả lời đơn của ông Nguyễn Văn Nh có nội dung: Ủy ban nhân dân phường V không thể hướng dẫn cho ông lập thủ tục cấp hợp thức hóa quyền sử dụng đất vì diện tích đất 1.230m2 là đất công do phường quản lý. Ngày 10/12/2020, ông Nh nộp đơn khiếu nại đối với Công văn số 1125/UBNDTD ngày 04/11/2020 của Ủy ban nhân dân phường V. Ngày 11/01/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nh.Tại Điều 6 Luật Tố tụng hành chính quy định: “…Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan…”. Tại khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính quy định “…Hội đồng xét xử có quyền quyết định chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)…”. Đối chiếu với quy định nêu trên thì Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 có liên quan trực tiếp đến Quyết định hành chính bị khởi kiện. Quá trình thụ lý giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không hướng dẫn đương sự khởi kiện bổ sung để yêu cầu Tòa án xem xét Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 là quyết định hành chính ban đầu hoặc xem xét tính hợp pháp của văn bản này trong bản án theo quy định tại Điều 193 Luật Tố tụng hành chính là có sai sót. Vì vậy, quá trình xét xử phúc thẩm Tòa án sẽ xem xét giải quyết đối với các quyết định hành chính có liên quan trực tiếp đến quyết định hành chính bị kiện để vụ án được giải quyết triệt để. Đồng thời, Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 của UBND phường V về việc trả lời không thể hướng dẫn cho ông Nh lập thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất có liên quan trực tiếp đến Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V về giải quyết khiếu nại bị khởi kiện. Do đó, văn bản nêu trên cũng là đối tượng được xem xét giải quyết của Tòa án theo quy định đã viện dẫn. Mặt khác, Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 là quyết định giải quyết khiếu nại nhưng bản án sơ thẩm xác định loại việc thụ lý, giải quyết: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” là chưa đầy đủ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật là: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại”.

(ii) Từ những căn cứ trên xét việc UBND phường V xác định thửa đất số 625 (thực tế là thửa 624), tờ bản đồ 21 là đất công nhưng không đưa vào danh mục đất công do nhà nước quản lý qua các thời kỳ từ năm 1997 đến 2021 trên địa bàn huyện (thị xã T) hay địa bàn tỉnh Bình Dương. Đồng thời, UBND phường V không nắm được diện tích đất cụ thể, không cung cấp được hồ sơ, quyết định thể hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất từ năm 1997 đến nay theo quy định của Luật Đất đai và quy định về việc quản lý đất công theo Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 25/01/2014 của UBND tỉnh Bình Dương nên việc UBND phường V trả lời về nguồn gốc đất đối với đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu của ông Nguyễn Văn Nh tại Văn bản số 1125/UBNDTD ngày 04/11/2020 là không phù hợp.

(iii) Đối với Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 của Chủ tịch UBND phường V:

Chủ tịch UBND phường V đã căn cứ biên bản ngày 17/11/97 có nội dung “thống nhất bồi thường bằng tiền thành quả lao động bỏ ra trồng cây cao su với số tiền là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) miếng đất đang xây dựng UBND còn lại số đất chưa xây dựng thống nhất cho trồng cây hàng bông khi nào nhà nước yêu cầu xây dựng thì trả lại cho nhà nước” và Quyết định số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 của UBND huyện Tân Uyên về việc giải quyết giải đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nh để giải quyết và bác khiếu nại của ông Nh. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436 nêu trên, do vậy quyết định này mặc dù không bị khởi kiện nhưng có liên quan đến yêu cầu của người khởi kiện. Lẽ ra khi giải quyết thì cấp sơ thẩm cần xem xét đến các biên bản làm việc cùng thể hiện ngày 11/7/97 của UBND xã V (nay là phường V) từ đó làm rõ tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 và Quyết định số 27/QĐ- UBND ngày 11/01/2021 vì nó đã được phía người bị kiện làm căn cứ bác yêu cầu khởi kiện của ông Nh. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Nh không tranh chấp đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 và quyết định này đã có hiệu lực pháp luật từ đó xác định Quyết định số 27/QĐ- UBND ngày 11/01/2021 có căn cứ là nhầm lẫn. Tuy nhiên, xét nội dung của Quyết định số 27 đã sử dụng lại nội dung của Quyết định số 1436 đồng thời phía người khởi kiện và người bị kiện đều thống nhất với nội dung của biên bản ngày 11/7/97. Sự thừa nhận của đương sự là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh quy định tại Điều 79 Luật Tố tụng hành chính 2015 nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm vì những thiếu sót trên.

Xét, diện tích đất 1.230m2 thửa đất số 625 (thực tế là thửa 624), tờ bản đồ 21 có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn G1 (cha ông Nguyễn Văn Nh) khai phá, sau đó giao lại cho ông Nh quản lý. Quá trình tố tụng, người bị kiện xác định năm 1997 tạm giao cho ông Nguyễn Văn Nh quản lý, sử dụng và yêu cầu khi nào nhà nước có nhu cầu sử dụng thì trả lại. Tuy nhiên, từ năm 1997 đến nay UBND phường V vẫn chưa có văn bản nào yêu cầu ông Nh trả lại diện tích đất nêu trên cũng không tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa. Tại Biên bản xem xét thẩm định, tại chỗ ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thị xã T thể hiện: “phần diện tích đất 1.230m2, thuộc thửa đất số 624 hiện trạng có 14 cây cao su ông Nh trồng vào năm 1991 và 09 cây lồng mức tự mọc”. Điều này xác định việc ông Nguyễn Văn Nh có quá trình sử dụng đất ổn định, lâu dài. Căn cứ khoản 3 Điều 17 Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 25/4/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương quy định: “3. Đối với các thửa đất bị lấn, bị chiếm trước ngày 01/7/2004 nếu người sử dụng đất đang sử dụng đúng quy hoạch, nền đất ổn định, không có nguy cơ bị sạt lở, không tranh chấp thì Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giao đất có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai”. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân phường V ban hành Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 về việc không hướng dẫn ông Nguyễn Văn Nh lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 04/11/2020 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nh có nội dung không đồng ý hợp thức hóa diện tích đất 1.230m2 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nh vì xác định diện tích đất trên thuộc đất công là không có căn cứ.

(iv) Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm có một số sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, tuy nhiên những thiếu sót này đã được khắc phục tại cấp phúc thẩm; sai sót này không làm thay đổi bản chất vụ án, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên không cần thiết phải hủy án sơ thẩm. Do đó, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị hủy bản án sơ thẩm là chưa phù hợp.

9. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án 

(i) Tuy nhiên, đối với yêu cầu “buộc UBND phường B phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật về đất đai đối với yêu cầu xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P”. Xét thấy đây là hệ quả kéo theo trong trường hợp yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính được chấp nhận theo quy định tại Điều 193 Luật Tố tụng hành chính, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định quan hệ tranh chấp là: “Khiếu kiện quyết định hành chính và buộc thực hiện nhiệm vụ công vụ trong lĩnh vực quản lý đất đai” là chưa đúng với bản chất vụ án. Nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là: “Khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý Nhà nước về đất đai”.

(ii) Xét thấy nhận định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên, Văn bản số 298/UBND ngày 03/11/2021 của UBND phường B chỉ có một phần nội dung “Nguồn gốc mà phần diện tích 408,5m2 ông Hoàng Ngọc P xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 15/6/2018. Qua xác minh, nguồn gốc sử dụng đất này là do gia đình ông Hoàng Ngọc P lấn chiếm vào năm 2007” là liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người khởi kiện; phần diện tích còn lại chưa được đo đạc cụ thể, chưa thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên nội dung trả lời của UBND phường B là phù hợp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy toàn bộ Văn bản số 298/UBND là không đúng.

(iii) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện nhưng không tuyên trả lại tiền tạm ứng án phí cho người khởi kiện là thiếu sót.

10. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại

Nội dung sửa án 

(i) Như vậy, UBND cấp xã nơi có đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và xác nhận về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất và sự phù hợp với quy hoạch. Tại Biên bản xác minh ngày 04/01/2022 về việc trả lời các câu hỏi của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T gồm: Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất; những giấy tờ hợp lệ hoặc hợp pháp kèm theo nguồn gốc đất (nếu có); thửa đất có thuộc đất công do phường quản lý hoặc cơ quan nhà nước quản lý, đất có lấn, chiếm hay không; thửa đất có thông báo thu hồi đất (hoặc quyết định thu hồi đất) chưa; đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không thì phó chủ tịch UBND phường Ph là người trực tiếp ký và không ghi thay mặt UBND là không đúng thẩm quyền, đối chiếu với quy định của pháp luật được viện dẫn nêu trên.

(ii) Về nguồn gốc: Ngày 04/01/2022, Phó chủ tịch UBND phường Ph đã căn cứ Biên bản số 81/BB.KT ngày 20/9/2002 của Đoàn kiểm tra việc quản lý sử dụng đất đai phường Ph; Quyết định số 260/QĐ.CT ngày 04/8/2003 của UBND thị xã T về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và đất đai; Biên bản ngày 15/8/2003 của UBND phường Ph về việc công bố quyết định xử lý vi phạm hành chính; Biên bản xác định mốc thời gian sử dụng đất đối với số hộ sử dụng đất chuyên dùng (nghĩa địa) ngày 21/9/2006; Bản đồ 299, sổ mục kê ruộng đất năm 1985 của xã Phú Thọ; Báo cáo số 209/BC.TCT ngày 26/01/2007 của Tổ công tác theo Quyết định số 4253/QĐ.UBND đã xác định phần đất của bà Th đang sử dụng có nguồn gốc là đất công (chuyên dùng) do UBND phường Phú Thọ quản lý trước năm 1995 (theo Bản đồ 299 xã Phú Thọ, sổ mục kê ruộng đất năm 1985 thuộc thửa số 6, tờ bản đồ số 01). Đến tháng 7/1995, khu đất nằm trong ranh giới đất bàn giao cho UBND phường Ph quản lý tuy nhiên hiện nay UBND phường Ph không cung cấp được hồ sơ bàn giao giữa hai bên. Xét tại Quyết định số 2700/QĐ.UB ngày 14/6/2002 của UBND thị xã T “về việc chứng nhận đăng ký quỹ đất công cho phường Ph, thị xã T” và Quyết định số 5322/QĐ-UBND ngày 18/11/2010 “về việc chứng nhận đăng ký quỹ đất công cho phường Ph, thị xã T, tỉnh Bình Dương” quản lý là không có thửa đất số 54, tờ bản đồ số 30, tại khu phố 2, phường Ph mà bà Th đang quản lý sử dụng. Như vậy, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã thì UBND phường Ph chỉ cần cung cấp cho Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch….Tuy nhiên Phó Chủ tịch UBND phường Ph ngoài việc cung cấp thông tin trên còn xác nhận nội dung “…đất chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...” là vượt quá thẩm quyền, vì UBND cấp xã không có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có thẩm quyền kết luận nội dung trên. Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá thẩm quyền trả lời của Phó Chủ tịch UBND phường Ph; nhận định bà Th không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giải quyết vượt quá thẩm quyền và phạm vi giải quyết theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

(iii) Xét tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 1718/QĐ- UBND ngày 15/3/2022 của Chủ tịch UBND phường Ph: Do Văn bản xác nhận ngày 04/01/2022 vi phạm thẩm quyền theo quy định của pháp luật nên quyết định giải quyết khiếu nại trên là không phù hợp pháp luật.

Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của người khởi kiện và quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là có cơ sở chấp nhận.

Góp ý