TỘI TRỐN ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

(Theo Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động được hiểu là hành vi vi phạm pháp luật khi người sử dụng lao động cố tình không thực hiện nghĩa vụ đóng các loại bảo hiểm bắt buộc cho người lao động theo quy định không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động mà còn gây thiệt hại cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.

2. Tội danh

“Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

1. Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

c) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người lao động;

d) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người lao động trở lên;

c) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 Điều này.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực bảo hiểm. Có thể hiểu rằng các quan hện xã hội trong lĩnh vực bảo hiểm là nhóm quan hệ được luật hình sự bảo vệ và có thể trở thành khách thể của tội phạm.

Đối tượng tác động của tội trốn đóng bảo hiểm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là các quỹ bảo hiểm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Khách thể của tội phạm ở đây có thể bị xâm hại làm thâm hụt các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

- Không đăng ký tham gia bảo hiểm cho người lao động:Người sử dụng lao động không thực hiện việc đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ngay từ khi ký hợp đồng lao động, hoặc cố tình không khai báo toàn bộ số lao động trong doanh nghiệp nhằm tránh đóng bảo hiểm cho một số người lao động.

- Khai báo không đúng số lượng người lao động hoặc mức lương:Người sử dụng lao động khai báo không đúng số lượng người lao động hoặc khai báo mức lương thấp hơn thực tế để giảm số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

Ví dụ: Một công ty có 100 lao động nhưng chỉ đăng ký bảo hiểm cho 80 người, hoặc khai báo mức lương thấp hơn nhiều so với thực tế để giảm mức đóng bảo hiểm.

- Không đóng bảo hiểm đúng hạn hoặc đóng không đủ:Người sử dụng lao động cố tình không đóng bảo hiểm đúng hạn, hoặc chỉ đóng một phần thay vì đóng đầy đủ theo quy định. Việc này có thể xảy ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính nhưng không báo cáo với cơ quan bảo hiểm, hoặc khi doanh nghiệp cố tình chiếm dụng tiền bảo hiểm của người lao động.

- Chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm của người lao động:Người sử dụng lao động đã thu tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ người lao động nhưng không nộp vào quỹ bảo hiểm, mà chiếm dụng khoản tiền này cho các mục đích khác.

Hậu quả của tội trốn đóng bảo hiểm:

- Thiệt hại cho người lao động: Người lao động không được hưởng các quyền lợi bảo hiểm như chế độ hưu trí, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, và các chế độ khám chữa bệnh. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và quyền lợi hợp pháp của họ.

- Thiệt hại cho quỹ bảo hiểm:Hành vi trốn đóng bảo hiểm làm thất thu nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho các trường hợp được bảo hiểm hợp pháp.

- Mất cân bằng thị trường lao động: Doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm có thể cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp tuân thủ đúng pháp luật, tạo ra sự bất bình đẳng trên thị trường lao động.

Lưu ý: Trong điều luật này cũng quy định cụ thể về mức tối thiểu người có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trốn đóng là từ 50.000.000 đồng trở lên.

Ví dụ: Một doanh nghiệp có 50 lao động, trong đó chỉ đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho 30 người, còn lại 20 người không được đăng ký. Điều này khiến 20 lao động không được bảo vệ về mặt bảo hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng nếu họ gặp phải các sự kiện như ốm đau, tai nạn lao động hoặc thất nghiệp. Số tiền trốn đóng được ghi nhận hơn 100.000.000 đồng.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người thực hiện hành vi trốn đóng trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động là do lỗi cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận rõ về hành vi của mình là hành vi gian dối trong thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Không có hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động nào được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp.

Mục đích của người phạm tội là thu lợi. Biểu hiện của mục đích thu lợi là người phạm tội tìm cách trốn thực hiện nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm bắt buộc.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định là pháp nhân hoặc cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.

Trân trọng./.

Góp ý