Thời điểm chấm dứt hôn nhân trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết và quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về được quy định giải quyết như thế nào?

Thời điểm chấm dứt hôn nhân trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết và quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về được quy định giải quyết như thế nào?

Thời điểm chấm dứt hôn nhân trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết và quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về được quy định giải quyết như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Chồng tôi bị mất tích nhiều năm và đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Gần đây, anh ấy bất ngờ trở về. Tôi rất băn khoăn về tình trạng hôn nhân hiện tại cũng như các vấn đề liên quan đến tài sản trong thời gian anh ấy vắng mặt. Vậy, thời điểm chấm dứt hôn nhân trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết và quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về được quy định giải quyết như thế nào?

MỤC LỤC

1. Thời điểm chấm dứt hôn nhân do vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết

2. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết

3. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về

 

Trả lời:

1. Thời điểm chấm dứt hôn nhân do vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết

Căn cứ Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 65. Thời điểm chấm dứt hôn nhân

Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.

Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.

Như vậy, quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Đây là một trong những trường hợp chấm dứt hôn nhân tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí của các bên hay phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên, trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thời điểm chấm dứt hôn nhân được xác định theo ngày chết được ghi rõ trong bản án, quyết định của Tòa án. Việc xác định thời điểm này có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, quyền thừa kế và tình trạng hôn nhân hợp pháp của người còn sống.

2. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết

Căn cứ Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết

1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.

4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.

Theo đó, khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, người còn sống sẽ là người quản lý tài sản chung của hai vợ chồng, trừ khi trong di chúc có quy định người khác làm người quản lý hoặc các người thừa kế thỏa thuận chỉ định một người khác. Nếu có yêu cầu chia di sản thì tài sản chung sẽ được chia đôi, trừ trường hợp hai vợ chồng trước đó có thỏa thuận khác về chế độ tài sản. Phần tài sản thuộc về người đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Đáng lưu ý, trong những tình huống việc chia di sản có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người còn sống hoặc gia đình thì người còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế việc phân chia di sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự. Đối với tài sản liên quan đến hoạt động kinh doanh, vẫn áp dụng theo các nguyên tắc nêu trên, trừ khi pháp luật về kinh doanh có quy định riêng.

3. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về

Căn cứ Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 67. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về

1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.

2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:

a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;

b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

Như vậy, khi Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và người vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sẽ được khôi phục kể từ thời điểm ban đầu hai người kết hôn. Tuy nhiên, nếu trước đó Tòa án đã có quyết định cho ly hôn theo khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình thì quyết định ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Ngược lại, nếu người vợ hoặc chồng đã kết hôn với người khác trong thời gian người kia bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ hôn nhân mới được xác lập sau sẽ có hiệu lực pháp luật, còn quan hệ hôn nhân trước không được khôi phục.

Theo đó, khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về quan hệ tài sản, nếu hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản cũng được khôi phục từ thời điểm quyết định hủy bỏ tuyên bố chết có hiệu lực. Tài sản mà vợ hoặc chồng có được trong khoảng thời gian từ khi bị tuyên bố là đã chết đến khi quyết định hủy bỏ có hiệu lực, sẽ được coi là tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản chưa chia trước thời điểm bị tuyên bố là đã chết sẽ được xử lý như việc chia tài sản khi ly hôn, nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan theo pháp luật.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý